Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng đầu năm 2022

Thứ tư - 28/09/2022 22:34
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 9/2022 ước tính đạt 1.786,8 tỷ đồng, tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 18,04% so với cùng kỳ năm trước.
9 tháng đầu năm 2022, kinh tế Việt Nam đã phục hồi nhanh chóng khi các hạn chế về đại dịch được nới lỏng và các chiến dịch tiêm chủng được triển khai rộng rãi. Các chính sách hỗ trợ như lãi suất thấp, tăng trưởng tín dụng mạnh, và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của chính phủ đã giúp gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo, hoạt động bán lẻ và du lịch. Áp lực lạm phát của Việt Nam chủ yếu giới hạn ở một số hàng hóa như nhiên liệu và các dịch vụ liên quan như vận tải. Người tiêu dùng ít bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng giá lương thực toàn cầu do nguồn cung trong nước dồi dào, giá thịt lợn giảm so với mức đỉnh của năm 2021. Hơn nữa, mức tăng giá đối với các dịch vụ, chẳng hạn như y tế và giáo dục cũng thấp. Tình trạng giãn cách y tế ở Trung Quốc có thể gia tăng ảnh hưởng đến tăng trưởng của nền kinh tế nước này, căng thẳng và xung đột địa chính trị gia tăng cũng gây ảnh hưởng đến các chuỗi giá trị toàn cầu trong đó có Việt Nam.
Từ đầu năm 2022, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường; nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, các hoạt động thương mại, du lịch, vui chơi giải trí bước đầu phục hồi và tăng trưởng; các hoạt động đầu tư, xây dựng được quan tâm, phát triển; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, trước ảnh hưởng của chính sách Zero-Covid của phía Trung Quốc từ đầu năm; cùng với căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao; thời tiết khắc nghiệt dẫn đến thiên tai, đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng xảy ra hổi cuối tháng 5/2022 khiến kinh tế tỉnh Lạng Sơn 9 tháng đầu năm chịu ảnh hưởng không nhỏ.

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Cây hằng năm
Vụ Đông Xuân năm 2022, tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm thực hiện đạt 47.332,35 ha, tăng 0,64%, trong đó:
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng 15.598,11 ha, tăng 3,95%. Diện tích gieo trồng cây lúa tăng do thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi, có mưa lớn đảm bảo lượng nước cho việc tưới tiêu nên người dân đã đẩy nhanh tiến độ cày ải, do đó diện tích gieo trồng tăng hơn so với năm trước. Năng suất lúa đạt 51,62 tạ/ha, giảm 0,19%, do ảnh hưởng của đợt mưa to kéo dài đầu tháng 5 đã gây ngập úng diện tích lúa ở các khu vực ven sông, suối nên năng suất giảm. Sản lượng lúa đạt 80.517,34 tấn, tăng 3,75 %.
- Cây ngô: Diện tích gieo trồng thực hiện 13.313,90 ha, tăng 0,66%. Năng suất đạt 51,44 tạ/ha, giảm 0,06%, cây ngô trong giai đoạn phát triển đã tiến hành phòng trừ sâu bệnh kịp thời, tuy nhiên do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều gây ngập úng nên năng suất giảm. Sản lượng ngô đạt 68.487,95 tấn, tăng 0,6%.
- Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng thực hiện 446,55 ha, giảm 9,54%, do sản phẩm khoai lang chủ yếu tiêu thụ tại địa phương. Năng suất đạt 60,47 tạ/ha, tăng 3,39%, sản lượng đạt 2.700,25 tấn, giảm 6,47%.
- Rau các loại: Diện tích gieo trồng thực hiện 6.046,92 ha, giảm 2,74%, diện tích giảm chủ yếu ở nhóm cây rau lấy lá và rau lấy quả; năng suất đạt 127,32 tạ/ha, giảm 0,66%, sản lượng đạt 76.986,85 tấn, giảm 3,39%.
Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm vụ Mùa năm 2022 ước thực hiện được 45.404,34 ha, tăng 0,38% so với cùng kỳ, trong đó:
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng ước thực hiện được 32.227,56 ha, giảm 0,03%, do người dân chuyển sang trồng cây khác có giá trị kinh tế cao hơn. Trong quá trình sản xuất cơ quan chuyên môn đã hướng dẫn người dân phòng trừ các loại sâu bệnh kịp thời. Năng suất lúa ước đạt 38,97 tạ/ha, tăng 0,04%, sản lượng lúa đạt 125.597,80 tấn.
- Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước thực hiện 5.492,36 ha, tăng 0,05% so với cùng kỳ. Diện tích cây ngô tăng do người dân chăn nuôi tái đàn lợn trở lại, nên mở rộng diện tích trồng ngô làm thức ăn chăn nuôi. Năng suất ước đạt 46,75 tạ/ha, tăng 0,04%, sản lượng 25.676,78 tấn, tăng 0,09%.
- Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng tương đương năm trước, dự ước thực hiện 895,98 ha, tăng 0,73%, năng suất đạt 70,78 tạ/ha, tăng 0,03%, sản lượng đạt 6.341,75 tấn, tăng 47,64 tấn.
- Cây lạc: Diện tích gieo trồng dự ước thực hiện được 1.750,45 ha, giảm 0,71% so với cùng kỳ. Giá bán lạc tươi 2 năm gần đây ổn định từ 18.000 - 22.000 đồng/kg, lạc khô đã bóc vở từ 55.000 – 65.000 đồng/kg, năng suất đạt 18,48 tạ/ha, tăng 0,76%, sản lượng  đạt 3.234,83 tấn.
- Rau các loại: Diện tích gieo trồng ước thực hiện được 2.718,66 ha, tăng 0,89%, diện tích tăng chủ yếu ở nhóm rau lấy lá, rau lấy quả. Năng suất ước đạt 120,67 tạ/ha, tăng 0,09%, sản lượng đạt 32.805,25 tấn, tăng 0,99%.

1.1.2. Cây lâu năm
Ước tính diện tích cây lâu năm 9 tháng năm 2022 là 50.631,36 ha, tăng 1,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cây ăn quả là 17.276,33 ha, chiếm 34,12% tổng diện tích cây lâu năm, tăng 1,95%; Cây chè 452,98 ha, giảm 1,35%; Cây gia vị, dược liệu lâu năm là 32.085,11, chiếm 63,37% tổng diện tích cây lâu năm, tăng 1,35%; Cây lâu năm khác 771,07 ha, tăng 1,14%.
Diện tích các cây lâu năm có thay đổi so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là do chuyển đổi từ cây trồng có năng suất, hiệu quả kinh tế thấp sang trồng cây có hiệu quả kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ ổn định hơn. Do thời tiết mưa ẩm, làm cho đất tơi xốp nên công tác gieo trồng cũng gặp thuận lợi hơn so với năm trước, góp phần làm cho diện tích cây lâu năm tăng hơn so với cùng kỳ, đặc biệt là diện tích những cây có giá trị kinh tế cao như cây na, hồng, hồi, …
- Cây ăn quả: Phong trào trồng cây ăn quả tiếp tục duy trì và phát triển ở tất cả các huyện, thành phố. Cây ăn quả được chú trọng phát triển, hình thành các vùng trồng cây ăn quả có diện tích lớn như: Cây na được trồng ở 02 huyện Chi Lăng và Hữu Lũng do có thổ nhưỡng phù hợp, cho chất lượng quả ngon; giá trị kinh tế từ quả na giúp người dân xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu có diện tích là 4.339,45 ha, tăng 6,75%, sản lượng na ước đạt 33.103,09 tấn, tăng 4,1%; Cây hồng được trồng nhiều ở các huyện: Văn Lãng, Cao Lộc và Chi Lăng có diện tích 2.057,38 ha, tăng 3,18%, sản lượng ước 8.232,17 tấn, tăng 5,3%.
- Cây chè: diện tích trồng chè búp là chủ yếu với 390,87 ha, chiếm khoảng 86% trong tổng diện tích chè, giảm 2,01% so với cùng kỳ, diện tích cây già cỗi, chết đi được chuyển đổi sang trồng các cây lâm nghiệp như thông, keo, bạch đàn, quế. Cây chè búp trồng chủ yếu ở huyện Đình Lập, ngoài ra còn trồng ở các huyện Lộc Bình, Bình Gia, Bắc Sơn. Sản lượng chè búp ước đạt 1.732,23 tấn, tăng 2,14% so với cùng kỳ.
- Cây hồi: diện tích ước đạt 31.610 ha, tăng 1,32%. Dự báo năm nay hồi tứ quý và hồi chính vụ đều cho năng suất cao, sản lượng ước đạt 14.119,2 tấn, tăng 2,91% so với cùng kỳ năm trước. Giá bán hồi bình quân khoảng 30.000 - 50.000 đ/kg tươi, 150.000 - 180.000 đ/kg khô. Cây hồi được trồng nhiều ở các huyện: Văn Quan, Bình Gia, Đình Lập.

1.1.3. Chăn nuôi
Chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có xu hướng giảm về số lượng đàn trâu, đàn bò; tổng đàn gà, vịt tiếp tục phát triển ổn định; tổng đàn lợn tăng cao so với cùng kỳ do duy trì, đẩy mạnh công tác tái đàn. Cụ thể:
Tổng đàn trâu toàn tỉnh vẫn giảm dần do hiệu quả kinh tế không cao và môi trường chăn thả bị thu hẹp, một số hộ xuất bán trâu để lấy vốn đầu tư vào trồng rừng. Ước tính số lượng trâu hiện có 63,3 nghìn con, giảm 2,87%; số con xuất chuồng ước đạt 14,4 nghìn con, giảm 7,51% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng xuất chuồng ước đạt 3.833 tấn, giảm 6,7% so với cùng kỳ. Tổng đàn trâu giảm do môi trường chăn thả bị thu hẹp; cơ giới hóa trong sản xuất.
Tổng đàn bò ước tính số lượng bò hiện có 28,2 nghìn con, giảm 6,25% so với cùng kỳ năm trước. Tỉnh đã có nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ người dân về nguồn vốn, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương. Nhiều mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt, kết hợp xử lý chất thải làm phân bón hữu cơ rất có hiệu quả. Trong 9 tháng, số con xuất chuồng ước 4,8 nghìn con, tăng 25,08% so với cùng kỳ; sản lượng thịt hơi xuất chuồng 1.053 tấn, tăng 7,82% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn: Ước tính số lượng lợn hiện có 160 nghìn con, tăng 57,79% so với cùng kỳ năm trước, Tình hình dịch bệnh tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh cơ bản được khống chế, việc kiểm soát dịch bệnh ngày càng chủ động, các cơ sở chăn nuôi tiếp tục duy trì thường xuyên công tác tăng đàn và tái đàn, nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học được duy trì và phát triển. Tập trung đẩy mạnh tái đàn ở các doanh nghiệp, hợp tác xã, các trang trại và hộ chăn nuôi có quy mô lớn, đủ điều kiện áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học và kiểm soát tốt dịch bệnh, nhằm đảm bảo nguồn cung thịt lợn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Số con xuất chuồng trong 9 tháng ước 245,6 nghìn con, tăng 15,44% so với cùng kỳ; sản lượng thịt hơi xuất chuồng 18.501 tấn.
Tổng đàn gia cầm của tỉnh phát triển tốt, công tác phòng chống dịch bệnh luôn được quan tâm, ước tính số lượng đầu con hiện có là 4.516 nghìn con, giảm 2,84% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia cầm đạt 11.910 tấn, tăng 0,68% so với cùng kỳ; sản lượng trứng gia cầm ước đạt 47.077 nghìn quả.

1.2. Lâm nghiệp
Chăm sóc, bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng: toàn bộ diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh tiếp tục được các chủ rừng tiến hành quản lý, bảo vệ, thực hiện phòng cháy chữa cháy rừng; diện tích rừng trồng chưa thành rừng tiếp tục được thực hiện các biện pháp chăm sóc, phát dọn để cây trồng sinh trưởng, phát triển thành rừng. Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Thường xuyên cập nhật tình hình thời tiết tại các vùng trên địa bàn tỉnh, kịp thời cảnh báo tới chính quyền các cấp, các chủ rừng và nhân dân chủ động thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng. Trong tháng trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng.
Ước tính 9 tháng năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 8,9 nghìn ha, giảm 1,23%. Phần ngân sách Nhà nước trồng cây phân tán giao cho người  dân cũng được chuyển một phần sang trồng rừng tập trung. Tổng sản lượng gỗ khai thác 9 tháng năm 2022 đạt 161,9 nghìn m3, tăng 20,79% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là gỗ nhóm 5; 6 và 7. Nguyên nhân do trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế, các cây trồng đã đến tuổi khai thác, người dân và doanh nghiệp chủ động khai thác để tái sản xuất rừng trồng mới. Khai thác gỗ nhiều ở các huyện Hữu Lũng, Lộc Bình, Đình Lập Sản lượng củi khai thác và tiêu thụ 9 tháng năm 2022 ước đạt 1.005,4 nghìn ste, tăng 1,47% so với cùng kỳ năm trước. Khai thác củi tập trung chủ yếu ở khu vực cá thể, được dùng cho mục đích đun nấu và một phần được tiêu thụ trên thị trường.

1.3. Thủy sản
Diện tích nuôi trồng thủy sản đến nay ước đạt 1.278 ha, giảm 0,62% so với cùng kỳ; sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 1.125 tấn, tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 225 tấn, tăng 2,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng khai thác cá là 156 tấn, tăng 3,71% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tăng chủ yếu là cá các loại do thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản vào một số hồ chứa.
2. Sản xuất công nghiệp
Trong 9 tháng năm 2022, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng so với cùng kỳ do tình hình dịch Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát, các doanh nghiệp đã chủ động trong kế hoạch sản xuất. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2022 do ảnh hưởng bởi giá xăng, dầu tăng đã tác động làm tăng giá thành sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, gây khó khăn, áp lực lên hoạt động sản xuất kinh doanh (chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào, chi phí vận tải,….) từ đó đã có những tác động làm chậm sự phục hồi của nền kinh tế. Sang quý III với việc giá xăng, dầu đã được điều chỉnh giảm, dự kiến hoạt động của các cơ sở sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi và tăng trưởng ổn định trở lại.
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2022
2.1.1. So với tháng trước
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tháng 9 giảm 1,13% so với tháng trước, giảm sâu ở ngành sản xuất và phân phối điện do việc thay phiên dừng lò sản xuất để bảo dưỡng định kỳ theo kế hoạch. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,67%, trong đó: than tăng 10,59%, đảm bảo đáp ứng sản lượng than cho sản xuất điện cho những tháng cuối năm; khai khoáng khác (sản phẩm đá xây dựng khác) tăng 7,22%, các công trình xây dựng trên địa bàn tăng, đặc biệt là các công trình dự án trọng điểm của tỉnh đẩy nhanh tiến độ trong nhưng tháng cuối năm, do đó nhu cầu đá xây dựng tăng. Sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được đánh giá diễn ra khá sôi động, nhất là khu vực cá thể và tập trung ở lĩnh vực chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ với sản phẩm chính là ván bóc; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (sản phẩm cửa hoa, cửa sắt), sản xuất giường, tủ, bàn, ghế; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 28,69%. Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Clanhke và xi măng Portland đen dự ước tăng, trong tháng đơn vị sản xuất dự kiến nhập nguyên liệu sản xuất sản phẩm clanhke đáp ứng đầu vào cho sản xuất xi măng. Cung ứng điện sản xuất và điện thương phẩm phục vụ nhu cầu sử dụng điện của các cơ sở sản xuất kinh doanh; điện sản xuất dự ước giảm 22,84% (do thay phiên dừng lò để bảo dưỡng theo kế hoạch), điện thương phẩm giảm 8,48%.  Trong ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Hoạt động khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 7,78%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 0,95%.
2.1.2. So với cùng kỳ
So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 năm 2022 tăng 10,83%. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,67%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,81%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 1,68%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 1,23%.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng, hoạt động khai thác than tăng 2,06%; hoạt động khai thác đá tăng 1,37%.
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, một số sản phẩm sản xuất tăng so với tháng cùng kỳ, như: Dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da có chỉ số sản xuất tăng rất cao do doanh nghiệp chủ động tìm kiếm, ký kết đơn hàng gia công cho các doanh nghiệp trong nước với khối lượng gia công lớn, tuy nhiên đơn giá thấp. Sản xuất kim loại (sản phẩm chì thỏi) tăng 354,37%, do cùng kỳ năm trước đơn vị sản xuất tạm nghỉ để sửa chữa nhà xưởng, bảo dưỡng máy móc sản xuất, trong tháng 9/2022 đơn vị sản xuất tăng công suất hoạt động, đảm bảo đơn hàng. Sản phẩm rượu trắng tăng cao, dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, các nhà hàng, quán ăn đã mở cửa trở lại, nhiều lễ hội và hoạt động du lịch phát triển dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tăng. Sản phẩm in, sao chép các loại bản ghi tăng 26,88% với nguyên vật liệu đầu vào vật tư chính như giấy ổn định, đáp ứng đủ và kịp thời cho quá trình sản xuất. Sản phẩm ván ép tăng  cao do lợi thế quỹ đất rừng sản xuất lớn để trồng rừng, nguyên liệu gỗ cung cấp ổn định cho công nghiệp chế biến.
Ngành công nghiệp điện, sự tăng, giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 9/2022 giảm 2,66%; điện thương phẩm tăng 2,79% so với cùng kỳ.
Ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 1%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 1,38%. Những ngành này hoạt động tương đối ổn định.

2.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III và 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp quý III/2022 dự tính tăng 9,86% so với cùng kỳ, với ngành khai khoáng tăng 12,99%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,17%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,87%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 2,09%. Mức tăng chủ yếu của ngành khai khoáng tập trung ở sản phẩm than; ngành chế biến, chế tạo tập trung ở các sản phẩm: Dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da; sản phẩm móc khoá cài; ván ép từ gỗ; bật lửa gas dùng một lần; colophan, rượu trắng.  
Sản xuất công nghiệp dự ước trong 9 tháng năm 2022  nhu cầu và sản lượng sản xuất đều tăng, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đã hoạt động hiệu quả với chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2022 tăng 8,35% so với cùng kỳ năm trước. Ngành khai khoáng tăng 6,95%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,23%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,60%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,08%. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng góp lớn vào mức tăng chung của toàn ngành như: Dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da do nhu cầu đặt hàng gia công tăng cao. Các sản phẩm từ gỗ như: gỗ dán, gỗ lạng, ván ép công nghiệp với lợi thế có sẵn nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng tại địa phương ngày càng lớn, số cơ sở chế biến gỗ tăng cao so với cùng kỳ, nhưng một vài tháng gần đây sụt giảm do lạm phát ở thị trường xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu, bên cạnh đó Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đang điều tra điều tra chống lẩn tránh sản phẩm gỗ từ các doanh nghiệp gỗ Việt Nam. Sản phẩm công nghiệp đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh là sản phẩm Colophan và axit nhựa cây dự ước trong 9 tháng đầu năm 2022 đạt gần 9 nghìn tấn, tăng trên 30% so với cùng kỳ, với sản lượng nhựa thông khai thác trong 9 tháng đầu năm ước tăng  cao là yếu tố thuận lợi đảm bảo về nguyên liệu cho quá trình sản xuất thường xuyên của các doanh nghiệp. Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng ở hoạt động gia công cơ khí trong các cơ sở cá thể như cơ sở sản xuất khung nhôm, cửa kính, hàn xì lợp mái tôn, hoạt động xây dựng tăng dẫn đến nhu cầu sử dụng sản phẩm tăng; các hoạt động du lịch dần mở cửa, nhà hàng, quán ăn mở rộng hoạt động, nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ ngành công nghiệp sản xuất, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ uống tăng theo.
Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Sản phẩm Xi măng Portland đen, clanhke xi măng dự ước giảm do chi phí nguyên vật liệu đầu vào (nguyên liệu than) tăng, đẩy giá thành sản phẩm tăng trong khi giá xuất khẩu không tăng dẫn đến lợi nhuận thấp đơn vị sản xuất cắt giảm khối lượng sản xuất. Sản lượng điện sản xuất chiếm tỷ trọng lớn là của Công ty cổ phần Nhiệt điện Na Dương phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc, dự ước trong 9 tháng đầu năm 2022 sản lượng điện đạt 600,78 triệu Kwh, tăng 7,29% so với cùng kỳ; sản phẩm than của Công ty Than Na Dương tăng theo nhu cầu sản xuất điện của Công ty cổ phần Nhiệt điện Na Dương, sản lượng ước đạt trên 416,83 nghìn tấn, tăng 6,67% so với cùng kỳ.

2.3. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2022 tăng 3,74% so với cùng kỳ; cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9/2022 giảm 2,19% so với cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ trong 9 tháng năm 2022 giảm sâu ở một số ngành như sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 54,77%, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 7,02%, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 27,15% do sức cạnh tranh sản phẩm của địa phương chưa cao, một số ngành thiếu nguyên liệu sản xuất.
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng  cao như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 372,75%, in, sao chép bản ghi các loại tăng 59,55%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 98,64%. Những ngành này đều có chỉ số sản xuất trong 9 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tháng 9/2022 tăng 1,35% so với tháng trước và giảm 13,49% so với cùng kỳ. So với cùng kỳ chỉ số tồn kho giảm chủ yếu ở ngành sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất kim loại do các doanh nghiệp đã chủ động tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống. Ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học có chỉ số tồn kho tăng rất cao so với cùng kỳ, nguyên nhân chính là năng lực các doanh nghiệp trong nước vẫn hạn chế; chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường. Sản phẩm từ cao su và plastic, sản xuất máy móc và thiết bị chưa được phân vào đâu chỉ số sản xuất giảm kéo theo chỉ số tồn kho giảm.

2.4. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động tháng 9/2022 giảm 0,33% so với tháng trước và giảm 4,40% so với cùng kỳ. Cụ thể, so với cùng kỳ ngành khai khoáng chỉ số sử dụng lao động giảm 0,97%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 4,53%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,65%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 11,76%, cùng với quá trình cổ phần hóa, Công ty cấp thoát nước Lạng Sơn cắt giảm lao động. Bình quân, 9 tháng đầu năm 2022, chỉ số sử dụng lao động giảm 4,47% so với cùng kỳ năm trước.
3. Tài chính, ngân hàng
3.1. Tài chính[1]
- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Ước thực hiện thu NSNN trên địa bàn 9 tháng năm là 5.318,8 tỷ đồng, đạt 67,8% dự toán tỉnh giao, giảm 33,94% so với cùng kỳ, trong đó: Thu nội địa đạt 2.030,5 tỷ đồng, đạt 86,4% dự toán tỉnh giao, giảm 10,31                                                                                                                                                                        % so với cùng kỳ; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 3.286.4 tỷ đồng, đạt 59,85% dự toán giao, bằng 56,8% so với cùng kỳ; Các khoản huy động, đóng góp: 1.870 triệu đồng.
Riêng đối với khoản thu từ hoạt động XNK cơ bản đạt tiến độ, kế hoạch dự toán giao; tuy nhiên so với cùng kỳ năm 2021, nguồn thu này giảm 43,17%. Nguyên nhân chủ yếu do, thực hiện Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về việc chính sách giảm thuế theo Nghị quyết 43/2022/QH15, trong đó giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% đối với phần lớn các loại hàng hoá nhập khẩu đã ảnh hưởng mạnh đến việc thu ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, do lộ trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định thương mại ASEAN- Trung Quốc giai đoạn 2018-2022, rất nhiều dòng hàng được cắt giảm thuế quan và có thuế suất thuế nhập khẩu thấp (0% - 5%) khi có C/O form E hợp lệ. Hàng hoá nhập khẩu qua các cửa khẩu thuộc địa bàn tỉnh chủ yếu là các mặt hàng: sơ-mi-rơ-moóc, các loại xe chuyên dùng, hàng hoá tiêu dùng, nội thất, hoá chất, nguyên liệu sản xuất, hoá quả... các mặt hàng này thuộc nhóm dòng hàng được cắt giảm thuế quan; áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời của Bộ Công Thương, các quy định siết chặt phương thức giao nhận hàng hóa của phía Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh đến số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, do vậy số thu giảm so với cùng kỳ năm 2021.
- Về chi ngân sách địa phương
UBND tỉnh đã điều hành chi ngân sách trong phạm vi dự toán được giao, số chi bổ sung cho các đơn vị khối tỉnh cũng như các huyện, thành phố trong 9 tháng đầu năm giảm so với các năm trước; đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng, phân bổ, giao dự toán đã bố trí ở các lĩnh vực chi. Các đơn vị sử dụng ngân sách và các cấp ngân sách đã nghiêm túc tổ chức triển khai các giải pháp đề ra, thực hiện tuân thủ các quy định về định mức chi thường xuyên trong giai đoạn mới. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 9 tháng năm là 7.205,4 tỷ đồng, đạt 59,3% dự toán tỉnh giao, tăng 4,2% so với cùng kỳ, trong đó: Chi cân đối ngân sách địa phương là 6.256,4 tỷ đồng, đạt 53,6% dự toán tỉnh giao, tăng 4,4% so cùng kỳ; chi Chương trình MTQG, chương trình mục tiêu và nhiệm vụ khác là 949 tỷ đồng, đạt 38,3% dự toán tỉnh giao đầu năm, tăng 2,5% so cùng kỳ so với năm 2021.

3.2. Ngân hàng[2]
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tăng cường huy động vốn để đáp ứng vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; quan tâm đầu tư tín dụng với các lĩnh vực ưu tiên; chấp hành nghiêm các quy định về lãi suất, quản lý ngoại hối; chủ động thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu... Hoạt động ngành ngân hàng ổn định và an toàn, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế xã hội địa phương. Ước thực hiện đến ngày 30/9/2022, tổng huy động vốn đạt 34.826 tỷ đồng, tăng 4,1% so với 31/12/2021.
Các ngân hàng trên địa bàn chủ động rà soát, nắm bắt tình hình kinh doanh của khách hàng, áp dụng kịp thời các biện pháp phù hợp nhằm hỗ trợ kịp thời cho khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; tiếp tục chủ động triển khai các giải pháp mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên đặc biệt là cho vay để duy trì và khôi phục các ngành, các lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Dư nợ tín dụng đạt 38.880 tỷ đồng, tăng 3,4% so với 31/12/2021.

4. Đầu tư, xây dựng
Các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh đã và đang tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà thầu hoàn thành các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh đúng tiến độ; thường xuyên quan tâm, kiểm tra giám sát tiến độ thi công các công trình trọng điểm, chỉ đạo quyết liệt các đơn vị thi công khẩn trương hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật của khu tái định cư và nhanh chóng bố trí tái định cư cho dân, tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công từng hạng mục công trình đảm bảo yêu cầu chất lượng. Công tác giải phóng mặt bằng các dự án khác tiếp tục thực hiện để có mặt bằng thi công các hạng mục xây dựng. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có những chuyển biến tích cực, nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ bản đã sớm được triển khai. Các hạng mục thi công một số dự án đạt tiến độ cao như dự án Cải tạo nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700-km18); Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần); Cải tạo nâng cấp tuyến Cao Lộc - Ba Sơn (ĐH.28) (huyện Cao Lộc); Dự án đường Xuân Long -Tràng Các (huyện Văn Quan)... tiếp tục thi công xây dựng, bàn giao đúng tiến độ, kịp thời theo dự án đã được duyệt.
 4.1. Tình hình vốn đầu tư thực hiện
Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Quý III năm 2022 ước đạt 4.515,8 tỷ đồng, tăng 20,65%  so với cùng kỳ. Theo nguồn vốn, vốn ngân sách Nhà nước đạt 1.205,2 tỷ đồng, tăng 0,57% so với cùng kỳ; vốn ngoài Nhà nước đạt 4.255,5 tỷ đồng, tăng 26,84% so với cùng kỳ (bao gồm vốn của các tổ chức, doanh nghiệp ngoài Nhà nước thực hiện đạt 2.262 tỷ đồng, vốn đầu tư của khu vực dân cư là 1.993,5 tỷ đồng); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 55,1 tỷ đồng, tăng gần 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Phân theo khoản mục đầu tư, Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý III năm 2022 đạt 4.617,8 tỷ đồng, chiếm 83,72%; vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua xây dựng cơ bản đạt 562,5 tỷ đồng, chiếm 10,2%; vốn đầu tư sửa chữa lớn nâng cấp tài sản cố định đạt 333,5 tỷ đồng, chiếm 6,05%; vốn bổ sung vốn lưu động dưới dạng hiện vật bằng vốn tự có đạt 2,1 tỷ đồng chiếm 0,04% trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn.
Thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với biến đổi khí hậu, UBND tỉnh đã ban hành văn bản chỉ đạo, thực hiện các giải pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực của mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất và biến động giá nhiên liệu, vật liệu đến các hoạt động xây dựng, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân các nguồn vốn đầu tư công và tăng cường kiểm soát, nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư nguồn vốn ngân sách nhà nước năm 2022; hồ sơ trình thẩm định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn hoàn thành; hồ sơ đăng ký danh mục và hồ sơ trình thẩm định chủ trương đầu tư dự án Nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn Km18-Km80) thuộc chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục rà soát, hoàn thiện hồ sơ dự án dự án dự kiến bố trí kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 - 2025. Các sở, ban, ngành theo chức năng nhiệm vụ chủ động theo dõi, kiểm tra giám sát đánh giá thực hiện dự án; đồng thời tiếp tục rà soát vướng mắc khó khăn trong thực hiện, đẩy nhanh việc triển khai các thủ tục đầu tư, xây dựng, thi công công trình, dự án.
Vốn đầu tư thực hiện 9 tháng đầu năm 2022 ước đạt 13.925,9 tỷ đồng, tăng 21,40%. Phân theo nguồn vốn đầu tư, vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 2.991,4 tỷ đồng, tăng 0,94% so với cùng kỳ; vốn ngoài Nhà nước: Ước đạt 10.811 tỷ đồng, tăng 27,88% (bao gồm, vốn của các tổ chức, doanh nghiệp ngoài Nhà nước thực hiện đạt 5.856,9 tỷ đồng, vốn đầu tư của khu vực dân cư là 4.954 tỷ đồng); Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Ước đạt 123,5 tỷ đồng, tăng 132,06% so với cùng kỳ năm trước.

4.2 Tình hình triển khai các dự án đầu tư công trọng điểm
- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2022 ước thực hiện được 554,7 tỷ đồng, đạt 57,54% kế hoạch.
- Dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập (WB8) có tổng mức đầu tư 196,8 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2022 ước thực hiện được 124,5 tỷ đồng, đạt 63,94% so với kế hoạch.
- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần), công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2022 ước thực hiện được 504,4 tỷ đồng, đạt 36,75% kế hoạch.
- Dự án Nâng cấp đoạn Km18-Km80, Quốc lộ 4B, tỉnh Lạng Sơn: UBND tỉnh đã rà soát, báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về danh mục dự án và mức vốn dự kiến bố trí vốn NSTW thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, vốn ngân sách tỉnh đối ứng theo yêu cầu. Hiện nay, UBND tỉnh đang tiếp tục phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện quy trình trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận giao UBND tỉnh làm cơ quan chủ quản dự án.

5. Tình hình doanh nghiệp
Từ đầu năm đến hết tháng 8/2022, có 316 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 4,82% so với cùng kỳ. Tổng số vốn đăng ký kinh doanh là 3.924,6 tỷ đồng tăng 39,68 % so với cùng kỳ. Doanh nghiệp gửi thông báo tạm ngừng hoạt động 238 doanh nghiệp tăng 45,12%, doanh nghiệp thông báo giải thể 107 doanh nghiệp giảm 30,97% so với cùng kỳ.
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý III/2022 so với quý trước: 32,26% doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 45,16% doanh nghiệp giữ ổn định; 22,58% số doanh nghiệp cho rằng sản xuất kinh doanh khó khăn hơn. Trong đó, khu vực FDI 100% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất giữ ổn định, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 37,04% đánh giá tốt lên và 37,04 % giữ ổn định, 25,93% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn quý trước.
Đánh giá xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp xây dựng, kết quả cho thấy xu hướng tổng quan tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quý III/2022 thuận lợi hơn so với quý II/2022. Về chi phí hoạt động xây dựng chủ yếu các doanh nghiệp nhận định về chi phí xây dựng tăng và số lượng lao động của doanh nghiệp chủ yếu ổn định; trong đó có 56,67% doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí xây dựng tăng. Đánh giá tình hình hoạt động xây dựng quý IV/2022 có 56,67% doanh nghiệp đánh giá xu hướng thuận lợi hơn; 23,33% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn, 20% doanh nghiệp đánh giá tình hình không đổi so với quý trước.

6. Thương mại và dịch vụ
Trong quý III, phía Trung Quốc tiếp tục triển khai phòng chống dịch ở mức cao và kiểm soát nghiêm ngặt đội lái xe chuyên trách. Từ cuối tháng 8, đã có hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu chính Chi Ma, nhưng số lượng không đáng kể. Trên địa bàn tỉnh còn duy trì thông quan hàng hoá tại 04 của khẩu: Hữu Nghị, Chi Ma, Ga ĐSQT Đồng Đăng và Tân Thanh, vì thế lưu lượng hàng hoá XNK hằng ngày được thông quan chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, điều đó đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động XNK hàng hoá trên địa bàn tỉnh.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 9/2022 ước đạt 270 triệu USD, lũy kế 9 tháng ước đạt 2.125 triệu USD, đạt 38,6% kế hoạch, giảm 30,78% so với cùng kỳ. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 50 triệu USD, lũy kế 9 tháng ước đạt 630 triệu USD, đạt 29,4% kế hoạch, giảm 36,36% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu trong tháng ước đạt 220 triệu USD, lũy kế 9 tháng ước đạt 1.495 triệu USD, đạt 44,5% kế hoạch, giảm 28,13% so với cùng kỳ. Kim ngạch hàng xuất khẩu hàng địa phương trong tháng ước đạt 13 triệu USD, lũy kế 9 tháng đạt 97 triệu USD, đạt 68,3% kế hoạch, tăng 6,6% so với cùng kỳ
[3].
Tình hình dịch Covid-19 hiện nay trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được kiểm soát, các hoạt hoạt động sản xuất kinh doanh lĩnh vực thương mại, dịch vụ phát triển tốt. Tại các chợ truyền thống, trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, các hệ thống phân phối hàng hoá đảm bảo nguồn hàng cung ứng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng bên cạnh, đó các đại lý cũng đã áp dụng nhiều chương trình khuyến mãi giảm giá các sản phẩm để kích cầu và không có hiện tượng khan hiếm hàng hoá hoặc tăng giá đột biến... Thời tiết tương đối thuận lợi nên hầu hết doanh thu các nhóm, ngành hàng hóa đều tăng hơn so với cùng kỳ. Với những mặt hàng đa dạng và phong phú đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân của địa phương nói riêng và du khách thập phương nói chung.

6.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 9/2022 ước tính đạt 1.786,8 tỷ đồng, tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 18,04% so với cùng kỳ năm trước. Xét doanh thu theo nhóm ngành hàng hoá thì có 10/12 nhóm ngành hàng hoá có tốc độ tăng so với tháng trước, lần lượt: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 0,43%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 1,15%; nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 1,8%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 0,5%; nhóm ô tô con tăng nhẹ 0,05%; nhóm phương tiện đi lại, trừ ô tô con tăng 0,11%; nhóm xăng dầu tăng 0,37%; nhiên liệu khác tăng 0,5%; nhóm hàng hoá khác tăng 0,5%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô xe máy tăng 0,48%. Các nhóm ngành hàng hóa khác còn lại giảm nhẹ ở mức ổn định không có hiện tượng biến động về giá cũng như khan hiếm mặt hàng. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá 9 tháng năm 2022 đạt 16.034,5 tỷ đồng, tăng 13,09% so với cùng kỳ năm trước.
6.2. Dịch vụ
6.2.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
 Hoạt động du lịch diễn ra ổn định, các tour du lịch trong nước liên tục có những ưu đãi, khuyến mãi với các gói du lịch trong tuần để kích cầu khách du lịch. Doanh thu dịch vụ lữ hành tháng 9/2022 ước đạt 1,2 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 0,13%; so với cùng kỳ tăng 70,42%.
 Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 9/2022 dự ước doanh thu đạt 177,2 tỷ đồng, tăng 1,73% so với tháng trước, gồm: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 8,6 tỷ đồng, tăng 2,13%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 168,6 tỷ đồng, tăng 1,71% so với tháng trước.
Dự ước 9 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.575,6 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 30,23%. Hiện nay, tỉnh cũng đã và đang tập trung phát triển các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tại một số huyện trên địa bàn tỉnh, như: Lộc Bình, Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng…. mục tiêu phát triển du lịch là một trong những ngành mũi nhọn của tỉnh trong giai đoạn tới. Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã và đang được đầu tư phát triển mạnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.

6.2.2. Doanh thu dịch vụ khác
Các hoạt động dịch vụ kinh doanh bất động sản, dịch vụ hành chính và hỗ trợ trong tháng 9/2022 có phần giảm hơn so với tháng trước do trong tháng mưa nhiều hơn. Bên cạnh đó, dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng so với tháng trước do các trường bắt đầu năm học mới.
 Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 9/2022 dự ước đạt 39,4 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 0,85%, cụ thể từng nhóm dịch vụ như sau: Nhóm kinh doanh bất động sản giảm 3,54%; nhóm hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 0,03%; nhóm hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 0,73%.
Dự ước 9 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ khác đạt 379,1 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 12%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đang được chú trọng đầu tư và phát triển thu hút khách du lịch từ mọi miền đến thăm quan và du lịch, nghỉ dưỡng các cơ sở hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống cũng được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng được nhu cầu của người dân.

6.3. Vận tải
Cùng với việc thích ứng linh hoạt với dịch bệnh Covid-19, hoạt động của ngành vận tải đã có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ, phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại và kinh doanh buôn bán của người dân trên địa bàn tỉnh. Xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện khai báo trực tuyến và xử lý trên nền tảng cửa khẩu số nhằm giảm bớt thời gian, công sức và khối lượng công việc của cơ quan quản lý tại cửa khẩu; đồng thời giảm bớt thời gian đi lại và giảm chi phí phát sinh cho doanh nghiệp.
Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 9/2022 ước đạt 154 tỷ đồng, tăng 16,3% so với cùng kỳ (do cùng kỳ năm trước chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh phải thực hiện các biện pháp cách ly xã hội, nên các hoạt động vận tải gặp nhiều khó khăn). Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 18 tỷ đồng, tăng 52,22%. Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 86,6 tỷ đồng, tăng 14,33%.
Dự ước doanh thu vận tải 9 tháng năm 2022 ước đạt 1.341,6 tỷ đồng, tăng 14,05% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hành khách đạt 166,4 tỷ đồng tăng 29,25%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 9,44%; hành khách luân chuyển tăng 21,73% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hoá đạt 793,1 tỷ đồng, tăng 13,80%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 25,56%; hàng hoá luân chuyển tăng 27,90% so với cùng kỳ; Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 379,5 tỷ đồng tăng 8,98%; dịch vụ chuyển phát đạt 2,6 tỷ đồng tăng 5,02% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân doanh thu ngành vận tải tăng so với cùng kỳ năm 2021: Chủ yếu tăng ở khối lượng hành khách vận chuyển, do tình hình dịch Covid-19 trong nước  được kiểm soát tốt, nhu cầu đi lại của người dân tăng, đặc biệt trong trong 9 tháng năm 2022 trên địa bàn tỉnh vào dịp 30/4 và 2/9 tổ chức lễ, hội lớn, lưu lượng khách vận chuyển tăng; khối lượng vận chuyển hàng hóa ước tăng cao hơn so với năm 2021 do hiện nay các hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại bình thường.

7. Chỉ số giá
7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 9/2022
* So với tháng trước: chỉ số giá tiêu dùng chung tăng 0,37% so với tháng trước. Trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 7 nhóm hàng tăng, 2 nhóm hàng giảm và 3 nhóm hàng không thay đổi so với tháng trước:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,59%: Chủ yếu tăng ở mặt hàng thực phẩm, so với tháng trước tăng 0,82%. Trong đó, giá thịt gia súc tăng 0,77%, riêng giá thịt lợn tăng 0,81% là do giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng đã đẩy giá bán thịt lợn lên theo; mặt khác thời gian qua giá xăng, dầu có điều chỉnh giảm nhưng giá sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hầu như vẫn giữ nguyên chưa có chiều hướng giảm, đây là nguyên nhân chính khiến giá các loại thịt bán lẻ đến tay người tiêu dùng vẫn cao. Giá thịt lợn tăng cao kéo theo giá dầu, mỡ ăn tăng 7,14%. Giá thịt gia cầm tăng 0,21%, giá trứng các loại tăng 1,50%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,35%. Nguyên nhân tăng do nguồn hàng cung ứng ít, nhu cầu dịch vụ ăn uống và tiêu dùng của người dân trong tháng tăng cao, các mặt hàng thực phẩm cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn tăng. Nhóm lương thực tăng 0,14%: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng chủ yếu ở mặt hàng gạo và các loại lương thực chế biến như bún phở, bánh đa.… do giá nguyên liệu đầu vào tăng nhẹ.
- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,30%: Chỉ số giá của một số mặt hàng trong nhóm có sự biến động tăng, giảm cụ thể như sau: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 1,57%, giá dịch vụ sửa chữa nhà cửa tăng 0,41% do giá một số VLXD tăng ở chi phí vận chuyển. Giá ga và các loại chất đốt khác giảm.
 - Nhóm giao thông ổn định: Chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 5,61% so với tháng trước: Do trong tháng có 3 lần điều chỉnh giảm giá xăng, dầu vào các ngày 05/9, 12/9 và 21/9. Ngày 05/9: Giá xăng, dầu tại thị trường trong nước đang biến động trái chiều so với với lần trước. Giá xăng giảm nhẹ từ 370 - 430 đồng/lít. Cụ thể, giá xăng E5 RON 92 giảm về mức 23.350 đồng/lít; xăng RON 95 xuống mức 24.230 đồng/lít. Trong khi đó, giá dầu lại tăng mạnh từ 1.390 - 1.430 đồng/lít. Cụ thể, giá dầu diesel tăng 1.430 đồng/lít, lên mức 1.430 đồng/lít; giá dầu hỏa tăng 1.390 đồng/lít, lên mức 25.440 đồng/lít. Riêng giá dầu mazut 180CST 3.5S lại quay đầu giảm nhẹ 470 đồng/kg so với kỳ điều chỉnh trước, về mức 16.070 đồng/kg.Với mức giá xăng dầu sau kỳ điều chỉnh này, giá bán lẻ dầu (diesel, dầu hoả) đã vượt giá xăng các loại. Ngày 12/9: So với lần điều chỉnh trước, mỗi lít xăng E5 RON 92 giảm thêm 1.120 đồng, giá xăng RON 95 giảm 1.020 đồng/lít. Sau khi giảm, mức giá bán lẻ tối đa với xăng E5 RON 92 là 22.230 đồng/lít và xăng RON 95 là 23.210 đồng/lít.Giá dầu diesel giảm 1.000 đồng/lít còn 24.180 đồng/lít, dầu hỏa còn 24.410 đồng/lít. Tuy nhiên, giá dầu vẫn cao hơn giá xăng trong nước. Ngày 21/9: Sau khi thực hiện trích lập và không chi sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giá bán các mặt hàng xăng dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường ngày 21/9 như sau: Xăng E5 RON 92 không cao hơn 22.231 đồng/lít (giảm 1.128 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành), thấp hơn xăng RON 95-III 983 đồng/lít; xăng RON 95-III không cao hơn 23.215 đồng/lít (giảm 1.015 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành). Dầu điêzen 0.05S không cao hơn 24.180 đồng/lít (giảm 1.008 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành); Dầu hỏa không cao hơn 24.418 đồng/lít (giảm 1.027 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành); Dầu mazut 180CST 3.5S: không cao hơn 15.039 đồng/kg (giảm 1.038 đồng/kg so với giá bán hiện hành).
* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước
CPI chung toàn tỉnh tháng 9/2022 tăng 4,03% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: (1) Nhóm lương thực tăng 4,65%; (2) Thực phẩm tăng 6,11%; (3) Ăn uống ngoài gia đình tăng 4,17%; (4) Đồ uống và thuốc lá tăng 0,75%; (5) Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 2,79%; (6) Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,07%; (7) Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,70%; (8) Nhóm giao thông tăng 5,5%; (9) Nhóm giáo dục tăng 12,65%; (10) Nhóm văn hóa giải trí và du lịch tăng 10,10%; (11) Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,69%.

7.2. Bình quân 9 tháng năm 2022
CPI chung toàn tỉnh 9 tháng năm 2022 tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,81%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,33%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,72%, giao thông tăng 11,36%, giáo dục tăng 1,97%, giải trí văn hoá và du lịch tăng 2,12%, nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 3,01%.
7.3. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng: Trong tháng 9/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá giảm, giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 0,43%, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,37%, so với năm gốc năm 2019 tăng 36,53%. Bình quân 9 tháng năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 3,28% so với bình quân cùng kỳ.
Chỉ số giá đô la Mỹ: So với tháng trước tăng 0,85%, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,62%, so với năm gốc năm 2019 tăng 2,15%. Bình quân 9 tháng năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 1,26% so với bình quân cùng kỳ.

8. Đời sống dân cư
 Trong 9 tháng năm 2022, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cơ bản ổn định không có biến động lớn, giá cả một số mặt hàng được bình ổn, cung ứng đầy đủ nguồn hàng chính sách và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Trong dịp Tết Nguyên đán, lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã tổ chức thăm, chúc Tết các tập thể, đơn vị, gia đình chính sách, người có công với cách mạng. Các cấp, các ngành của tỉnh, các tổ chức, cá nhân hảo tâm đã tổ chức nhiều đoàn thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo đảm bảo công tác an sinh xã hội trên địa bàn.  Chính sách bảo đảm an sinh xã hội thường xuyên được quan tâm, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người có công, hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội; chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững được thực hiện đồng bộ gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới; chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được thực hiện đầy đủ. Các chính sách về dân tộc, tôn giáo được thực hiện kịp thời, đúng quy định; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc từng bước được cải thiện, không để phát sinh những vấn đề nổi cộm về tôn giáo.
8.1. Công tác an sinh xã hội
Cấp ủy và chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo, chính sách hỗ trợ giảm nghèo được triển khai đồng bộ, hiệu quả như: Hỗ trợ giáo dục, đào tạo. Trong 9 tháng đã hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo và các đối tượng chính sách ước đạt 427.889 thẻ.
Triển khai thực hiện công tác giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 -2025, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 235/QĐ-UBND ngày 06/02/2022 phê duyệt kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021, Theo chuẩn nghèo quy định tại Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 là: Tổng số hộ nghèo 23.510 hộ, chiếm 12,20%; Tổng số hộ cận nghèo 23.248 hộ, chiếm 12,07%. Thực hiện cứu đói cho các hộ gia đình trên địa bàn, tổng số 4.683 hộ (15.572 nhân khẩu) với 233.580 kg gạo, kinh phí 3,6 tỷ đồng.
Thăm hỏi, tặng quà các gia đình hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: 1.730 hộ, tổng trị giá 1 tỷ đồng; các đối tượng bảo trợ xã hội: 524 người trị giá 314,4 triệu đồng; Người cao tuổi: 10 người, trị giá: 6 triệu đồng; trẻ em 04 người, trị giá 2,4 triệu đồng. Thực hiện chuyển quà tặng từ tỉnh, huyện, xã và các nguồn xã hội hóa, các đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội, các cá nhân cho 29.193 người, trị giá quà tặng 15,5 tỷ đồng.
Thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội đối với người có công, gia đình khó khăn, đối tượng bảo trợ xã hội. Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 34.191lượt người có công và thân nhân với kinh phí 63,3 tỷ đồng. Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân, người hoạt động kháng chiến là 1.000 hồ sơ. Toàn tỉnh đã thực hiện thăm hỏi, tặng 22.830 lượt quà tặng cho người có công và gia đình chính sách, với tổng kinh phí thăm hỏi, tặng quà là 14 tỷ đồng.

8.2. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[4]
Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, các chính sách lao động - việc làm được duy trì thường xuyên tại Trung tâm Dịch vụ việc làm, Ước tạo việc làm mới cho khoảng 15.000 lao động trên địa bàn tỉnh, đạt 93,75% kế hoạch, trong đó: Tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm thông qua chương trình cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm của tỉnh cho khoảng 5.000 lao động; trên 2.000 lao động được tạo việc làm mới từ chương trình đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, thương mại, du lịch, phát triển doanh nghiệp của tỉnh; trên 8.000 lao động đi làm việc tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ngoài tỉnh. Tuyển sinh và đào tạo đến nay được 11.318 người, đạt 58,3% so với kế hoạch, trong đó: Trình độ cao đẳng, trung cấp: 400 người; sơ cấp 7.401 người; dưới 3 tháng 3.517 người. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 58,83 %.
Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Lũy kế đến hết tháng 8 toàn tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 là 12,66 tỷ đồng. thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho 631 người lao động với kinh phí hỗ trợ là 497,5 triệu đồng.
Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội duy trì ổn định. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của công tác chăm lo đời sống cho người lao động, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đã chú trọng các chính sách để thu hút người lao động gắn bó lâu dài. Việc thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, BHTN và trả lương cho người lao động tại các doanh nghiệp cơ bản được thực hiện ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa chấp hành nghiêm Luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội như: Chưa thực hiện đúng thời gian làm việc, không đóng bảo hiểm cho người lao động, một số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả dẫn đến việc chi trả lương cho người lao động thấp. Do vậy, lực lượng lao động của tỉnh đi làm thuê ở ngoài tỉnh tương đối lớn.

9. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[5]
9.1. Công tác y tế dự phòng
* Công tác phòng chống dich Covid-19 tính đến 15h00 ngày 24/9/2022:
Trong tháng 9, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống dịch Covid-19; chủ động thực hiện chiến lược “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid -19” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương và của tỉnh. Tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch Covid -19, đẩy mạnh tiêm chủng vắc xin phòng Covid -19 cho các đối tượng theo tiến độ, đặc biệt là các đối tượng tiêm mũi 3, mũi 4 cho người từ 12 tuổi trở lên và tiêm liều cơ bản cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi. Đảm bảo y tế “vùng xanh” phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khu vực các cửa khẩu theo Phương án số 25/PA-UBND ngày 24/5/2022 của UBND tỉnh. Tăng cường giám sát dịch bệnh, đặc biệt các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, dịch bệnh theo mùa như sốt xuất huyết, tay chân miệng, đậu mùa khỉ,... đẩy mạnh thực hiện các hoạt động duy trì hiệu quả Chương trình mục tiêu y tế - dân số. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và thái độ chăm sóc phục vụ bệnh nhân; đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu 24/24 giờ. Thực hiện Đề án “Khám chữa bệnh từ xa” tại 14/14 bệnh viện theo kế hoạch.
Đánh giá cấp độ dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ Y tế (đánh giá ngày 12/9/2022): Quy mô xã 198/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh”; 02/200 xã Cấp 2 “Vùng vàng” (bao gồm: xã Vĩnh Tiến/huyện Tràng Định; xã Minh Tiến/ huyện Hữu Lũng).
Từ tháng 8 trở về đây, số ca mắc có xu hướng tăng lên (tổng số ca mắc trong tháng 8 là 1.080 ca, tăng gấp 4 lần so với tháng 6, tháng 7; số ca nhập viện cũng tăng gấp 4 lần so với táng 6, tháng 7), nhưng tình hình dịch bệnh vẫn cơ bản kiểm soát tốt. Trong tháng 9 phát hiện 2.514 ca F0 (tính đến ngày 24/9/2022). Tính riêng năm 2022 đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 157.325 F0 (328). Lũy kế từ năm 2021 đến nay: 159.255 F0; đã khỏi bệnh 158.772 ca; tử vong 101 ca. Hiện còn điều trị 382 F0 trong đó 348 người điều trị tại tỉnh và 34 người điều trị ngoài tỉnh.
Tình hình tiêm chủng: Theo kết quả đánh giá của Bộ Y tế, tỷ lệ tiêm chủng các nhóm tuổi theo quy định của tỉnh Lạng Sơn luôn được đánh giá trong top 15 tỉnh có tỷ lệ tiêm chủng nhanh và cao so với tỷ lệ trung bình của cả nước.
* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác: tiếp tục được kiểm soát, không để dịch lớn xảy ra. Trong tháng có 05 bệnh có số mắc tăng và 06 bệnh có số mắc giảm hoặc tương đương so với cùng kỳ. Trong tháng, trên địa bàn thành phố Lạng  ơn xuất hiện 01 ổ dịch Sốt xuất huyết. Các bệnh truyền nhiễm khác phân bố rải rác, không có yếu tố dịch tễ gây dịch hay ổ dịch.

9.2. Công tác khám chữa bệnh
Các đơn vị khám, chữa bệnh đảm bảo trực 24/24 giờ. Kết quả trong tháng 9: Khám được 126.433 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 12.524 lượt; điều trị ngoại trú cho 9.339 lượt. Cộng dồn 09 tháng: Khám được 983.050 lượt, đạt 67% kế hoạch năm; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 107.909 lượt, đạt 73% kế hoạch năm; điều trị ngoại trú cho 129.734 lượt, đạt 274% kế hoạch năm. Trong tháng, khám chữa bệnh ngoài công lập đạt được 27.898 lượt, trong đó số khám bảo hiểm y tế 15.184 lượt; Chuyển viện 871 lượt; Tổng số khám sức khỏe 2.507 lượt. Cộng dồn 9 tháng khám được 175.091 lượt, trong đó số khám bảo hiểm y tế 118.277 lượt; Chuyển viện 6.872 lượt; Tổng số khám sức khỏe 11.152 lượt.
10. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[6]
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng đất nước và của tỉnh, đặc biệt là tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch Covid-19; triển khai mở cửa hoạt động kinh doanh dịch vụ Karaoke, vũ trường trong điều kiện bình thường mới.
Tổ chức các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân Nhâm Dần năm 2022, tổ chức Cuộc thi Vườn cây hoa Đào đẹp và cây hoa Đào đẹp Xứ Lạng Xuân Nhâm Dần năm 2022; tổ chức thành công Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Đề án bảo tồn phát huy giá trị cây đào Xứ Lạng và tổ chức lễ hội hoa Đào Xứ Lạng; phối hợp tổ chức thành công Lễ hội Kỳ Hoa - Lạng Sơn 2022 với nhiều hoạt động kỳ thú, không gian hoa lệ, mang đậm bản sắc văn hoá xứ Lạng phục vụ nhân dân và du khách, đây là hoạt động điểm nhấn khởi động lại hoạt động du lịch sau sau thời gian dài chịu nhiều ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19.
Thực hiện công tác nghiệp vụ tại Thư viện theo kế hoạch. Trao đổi các ấn phẩm báo xuân với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tổ chức trưng bày, triển lãm, xếp sách nghệ thuật các ấn phẩm sách, báo chuyên đề chào Xuân, đón Tết Nhâm Dần năm 2022. Tổ chức các hoạt động ngày Sách Việt Nam 21/4 và Ngày Sách và bản quyền thế giới 23/4; Tổ chức các hoạt động hè cho đối tượng độc giả thiếu niên, nhi đồng và tổ chức Chương trình “Trang sách mùa hè” năm 2022; Trưng bày sách nhân kỷ niệm 111 năm Ngày sinh đồng chí Võ Nguyên Giáp; Ngày Hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8); kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng tám thành công và Quốc khánh (2/9);… Tổ chức thành công cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” tỉnh Lạng Sơn năm 2022 thu hút được đông đảo các em học sinh trên địa bàn tỉnh tham gia.
Thực hiện 07 cuộc triển lãm tại bảo tàng. Sưu tầm, phục chế tài liệu, hiện vật tại các huyện trong tỉnh và ngoài tỉnh. Trong 9 tháng phục vụ, đón tiếp 11.682 lượt khách đến tham quan, nghiên cứu, học tập
09 Đội chiếu bóng lưu động thuộc đơn vị đã thực hiện tốt việc chiếu phim lưu động phục vụ bà con nhân dân tại các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới trên địa bàn tỉnh với các bộ phim đặc sắc, phù hợp với dân tộc, vùng miền và văn hóa của địa phương. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền lồng ghép với các buổi chiếu với các nội dung như: Tuyên truyền về vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn giao thông, phòng, chống buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và đốt pháo nổ, về phòng, chống dịch Covid-19…; tổ chức tốt công tác chiếu phim tại Rạp Đông Kinh
Tổ chức biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ chuyên môn đã xây dựng các chương trình Nghệ thuật đặc sắc phục vụ các sự kiện trọng đại của tỉnh. Xây dựng 01 chương nghệ thuật đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Lạng Sơn. Phát triển mô hình Câu lạc bộ, Đội văn nghệ dân ca truyền thống Xứ hoa Đào, duy trì tốt hoạt động của 40 câu lạc bộ thuộc Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật quản lý. Các huyện, thành phố tích cực tổ chức các hoạt động cho gần 500 câu lạc bộ tại 11 huyện, thành phố.
Tổ chức các hoạt động TDTT cơ sở nhằm thúc đẩy phòng trào tập luyện TDTT của người dân. Phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2022, tăng cường công tác phòng chống đuối nước trẻ em. Tổ chức các hoạt động Văn hóa, Thể thao, Du lịch và ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2022 tại khu du lịch Mẫu Sơn. Tổ chức các lớp thể thao hè năm 2022 với 6 môn, có gần 150 học sinh tham gia: Bóng đá, Cờ vua, Cầu lông, Karatedo, Boxing.
Tổ chức các giải thể thao cấp tỉnh và phối hợp tổ chức giải thể thao của các ngành trên địa bàn tỉnh. Trong đó, tổ chức 03 giải cấp tỉnh gồm: Giải Bóng đá thiếu niên, nhi đồng tỉnh Lạng Sơn năm 2022; Giải vô địch Bóng bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2022 và Giải Bóng bàn cầu lông thiếu niên nhi đồng năm 2022.  Tổ chức các đoàn VĐV tham gia các giải thể thao khu vực và toàn Quốc, 6 tháng đầu năm 2022 đã đạt 27 huy chương các loại (04 huy chương vàng, 13 huy chương bạc, 10 huy chương đồng). Năm 2022 là lần đầu tiên VĐV của tỉnh Lạng Sơn giành huy chương tại SEA Games.
Tổng lượng khách du lịch 9 tháng năm ước đạt 3,1 triệu lượt khách, đạt 88,9% kế hoạch, tăng 181,1% so với cùng kỳ 2021, đạt 88,9% so với kế hoạch năm 2022. Trong đó, khách quốc tế 19.444 lượt, tăng 58,4%; khách trong nước 2,83 triệu lượt, tăng 162,3%. Du lịch Lạng Sơn cùng các địa phương khác và cả nước đều chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay có 08 doanh nghiệp lữ hành. Quý I năm 2022, tất cả các doanh nghiệp đều phải tạm dừng không đón khách và gặp rất nhiều khó khăn. Tổng số cơ sở lưu trú du lịch (khách sạn, nhà nghỉ, homestay) đến tháng 6 năm 2022 có tổng số 261 cơ sở (giảm 8 cơ sở so với cuối năm 2021). Trong 6 tháng đầu năm đã hỗ trợ 261 cơ sở lưu trú du lịch được thụ hưởng hỗ trợ giảm giá điện từ giá bán lẻ điện kinh doanh xuống giá bán lẻ điện sản xuất; giảm chi phí thẩm định công nhận hạng.

11. Giáo dục
Trong tháng, tổ chức hội nghị tổng kết ngành Giáo dục năm học 2021-2022. Thực hiện các công tácchuẩn bị năm học mới và tổ chức Lễ Khai giảng năm học 2022-2023. Toàn tỉnh hiện có 674 đơn vị trường học với tổng số hơn 200.000 học sinh; trên 20.500 cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên, nhân viên
. Tổ chức các hội nghị tập huấn, bổi dưỡng nghiệp vụ , như: tập huấn, bồi dưỡng cán bộ quản lý cấp tiểu học năm học 2022-2023; tập huấn đánh giá đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công năm 2022 và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Cải cách hành chính năm học 2022-2023; bồi dưỡng Hiệu trưởng trường mầm non năm học 2022- 2023... Triển khai, thực hiện đẩy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Tăng cường truyền thông, rà soát đối tượng tiêm vắc xin phòng Covid-19. Triển khai rà soát sốlượng cán bộ quản lý, giáo viên thuộc đối tượng được hưởng theo Nghị quyết103/NQ-CP Nghị quyết về chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhânviên trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học ngoài công lập gặp khó khăn do Covid-19.

12. Trật tự - An toàn giao thông[7]
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tổ chức thực hiện các đợt cao điểm trấn áp các loại tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội; kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi sai phạm về pháo, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trái phép. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, vi phạm pháp luật trên lĩnh vực hình sự, ma túy, kinh tế, môi trường. Trong tháng xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 04 người, bị thương 02 người; lũy kế 9 tháng trên địa bàn tỉnh đã sảy ra 27 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người, bị thương 11 người.
13. Môi trường
Trong tháng 9, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện, vì vậy không có vụ vi phạm cần phải xử lý và tiến hành xử phạt; so với tháng 9 năm 2021 cũng không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện. Lũy kế từ đầu năm 2022 có 02 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, tổng số tiền xử phạt 90 triệu đồng.
14. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, trên khu vực tỉnh Lạng Sơn xảy ra mưa lớn trên diện rộng làm ngập, sạt lở đất và nhiều công trình nhà ở, cụ thể: Sạt lở, sập 3 nhà tại huyện Hữu Lũng, thiệt hại 1,5 tỷ đồng; hư hại 71 nhà (huyện Đình Lập, Hữu Lũng, Văn Quan, Cao Lộc), thiệt hại 690 triệu đồng; diện tích lúa bị thiệt hại 112,4 ha, hoa màu bị thiệt hại 43,9 ha, ước thiệt hại 1,5 tỷ đồng; sét đánh làm chết 17 con bò tại xã Minh Khai, huyện Bình Gia thiệt hại 300,5 triệu đồng; gia cầm bị nước cuốn trôi 150 con, ước thiệt hại 3,7 triệu đồng; Diện tích thủy sản bị thiệt hại 5,1 ha, ước thiệt hại 190,7 triệu đồng. Tổng giá trị thiệt hại ước khoảng 7,9 tỷ đồng. So với tháng 9 năm 2021 không có thiên tai xảy ra.
 

[1] Nguồn: Sở Tài chính.
[2] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn.
[3] Nguồn: Sở Công thương.
[4] Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
[5] Nguồn: Sở Y tế.
[6] Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch.
     [7] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh.

Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây