Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024

Thứ bảy - 05/10/2024 22:40
Tổng vốn đầu tư thực hiện 9 tháng năm 2024 ước đạt 16.353,5 tỷ đồng, tăng 10,90% (+ 1.607 tỷ đồng) so với cùng kỳ.

Ngay từ đầu năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Thực hiện chủ trương tập trung cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo bước chuyển biến mới trong thu hút đầu tư, tỉnh tích cực hỗ trợ các tập đoàn, doanh nghiệp triển khai các dự án đầu tư trọng điểm. Hoạt động thương mại diễn ra sôi động, giá cả các mặt hàng cơ bản ổn định, hàng hóa phong phú, đa dạng, bảo đảm phục vụ nhu cầu của người dân, không có hiện tượng thiếu hàng cũng như tăng giá đột biến. Hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Ga đường sắt quốc tế  Đồng Đăng, cửa khẩu chính Chi Ma, các cửa khẩu phụ Tân Thanh, Cốc Nam, Na Hình, Nà Nưa. Lượng phương tiện chở hàng hóa trung bình đạt 1.200 xe/ngày. Hoạt động sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm do 02 công ty chiếm tỷ trọng lớn gặp khó khăn phải giảm sản lượng sản xuất. Thời tiết trong quý II và quý III không thuận lợi, mưa nhiều, có những đợt mưa lớn kéo dài, xảy ra bão, lũ ảnh hưởng đến sản xuất. Tuy nhiên Tiến độ sản xuất nông nghiệp vẫn đảm bảo theo khung thời vụ, vật tư phân bón, giống cây trồng được đáp ứng đầy đủ. Kết quả tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2024 đạt được một số kết quả như sau:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

1.1. Nông nghiệp

* Cây hằng năm 

Trong tháng người dân thực hiện gieo trồng, tiến hành thu hoạch một số cây hoa màu, cây trồng vụ Mùa. Các đối tượng dịch hại trên cây trồng có mật độ, tỷ lệ gây hại thấp, mức độ gây hại nhẹ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 (Bão Yagi) gây thiệt hại lớn, theo thống kê sơ bộ đã có trên 8.172 ha cây trồng nông nghiệp bị ảnh hưởng (5.108 ha lúa; 2.669 ha hoa màu; ….). Hiện nay người dân đang triển khai công tác khắc phục hậu quả và chăm sóc cây trồng sau bão. Các đơn vị quản lý khai thác công trình đã tiến hành rà soát, kiểm tra các công trình thủy lợi sau bão lũ, đặc biệt là các hồ chứa đã đạt và vượt dung tích theo thiết kế thực hiện vận hành xả lũ tự do qua tràn; riêng hồ chứa nước Bản Lải, đơn vị quản lý đang tiếp tục theo dõi và thực hiện xả lũ theo quy trình vận hành.

Diện tích gieo trồng một số cây trồng trong tháng: Cây lạc gieo trồng thực hiện được 250,0 ha, giảm 0,69% so với cùng kỳ, Cây rau các loại gieo trồng được 12,7 ha, tăng 1,93% (+0,24 ha); sản lượng thu hoạch trong tháng đạt 3.268,7 tấn, giảm 2,37% (-79,35 tấn) so với cùng kỳ. 

- Vụ Đông Xuân 

Kết thúc vụ Đông Xuân năm 2024, tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm thực hiện 45.419,28 ha, giảm 0,32% (-143,58 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng lương thực có hạt tăng 2,19%, sản lượng một số cây trồng tăng cao như ớt cay, thuốc lá, khoai tây, cà chua nhờ có sự kết hợp đồng bộ các biện pháp từ chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng hợp lý. 

 

Cây lúa: Diện tích gieo trồng đạt 15.461,71 ha, tăng 0,17% (+26,23 ha); năng suất lúa ước đạt 51,76 tạ/ha, tăng 1,24% (+0,63 tạ/ha); sản lượng lúa đạt 80.032,96 tấn, tăng 1,41% (+1.113,87 tấn) so với cùng kỳ. Từ đầu năm 2024 đến nay trời có mưa rải rác, mưa đều, nguồn nước tưới đảm bảo, thời tiết nắng ấm thuận lợi cho cây trồng phát triển; sâu bệnh hại lúa chủ yếu sâu cuốn lá nhỏ, bệnh đạo ôn lá lúa, bệnh khô vằn, có mật độ và tỷ lệ bệnh hại thấp. Từ ngày 29/5/2024, châu chấu tre lưng vàng xuất hiện mật độ cao phá hại lúa, ngô, tre, vầu,...; tổng diện tích nhiễm châu chấu tre lưng vàng 73,5 ha tại 08 huyện (Bình Gia, Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, Văn Quan, Chi Lăng); các địa phương tiến hành phun bao vây đồng loạt với diện tích phun trừ  106,9  ha, hiệu quả phun trừ đạt trên 95%, dịch châu chấu được bao vây không lây lan ra diện rộng.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng thực hiện 13.795,96 ha, tăng 1,18% (+160,81 ha). Diện tích ngô tăng chủ yếu ở huyện Văn Quan, Đình Lập do nông dân chuyển diện tích không trồng lúa sang trồng ngô, do cây ngô chịu hạn tốt hơn cây lúa. Trong giai đoạn cây sinh trưởng, phát triển, người dân tiến hành phòng trừ sâu bệnh kịp thời theo đúng quy trình hướng dẫn; năng suất ngô đạt 53,71 tạ/ha, tăng 1,86%, (+0,98 tạ/ha), sản lượng ngô đạt 74.092,45 tấn, tăng 3,04% (+2.187,17 tấn) so với cùng kỳ.

Cây lấy củ có chất bột: Diện tích gieo trồng thực hiện 1.487,51 ha, tăng 7,54% (+104,26 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở cây khoai tây, gieo trồng 759,11 ha (+140,55 ha); năng suất đạt 129,86 tạ/ha, tăng 1,6%; sản lượng đạt 9.857,52 tấn (+1.950,78 tấn) so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, các loại cây khoai lang, khoai mỡ, khoai môn, dong giềng và các cây lấy củ có chất bột khác giảm diện tích gieo trồng so với cùng kỳ do hiệu quả kinh tế không cao.

Cây thuốc lá: Diện tích gieo trồng thực hiện được 2.732,9 ha, tăng 6,14% (+158 ha). Diện tích gieo trồng thuốc lá tăng chủ yếu ở huyện Bắc Sơn, Hữu Lũng, Văn Quan giá bán trên thị trường ở mức cao trên 50.000 đồng/kg. Những năm gần đây, thuốc lá được trồng nhiều trở lại, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, thu sản phẩm tại hộ, trợ cấp phân bón trước cho các hộ dân đã khuyến khích người dân yên tâm tăng diện tích trồng thuốc lá. Năng suất đạt 23,31/ha, tăng 1,77% (+0,4 tạ/ha; sản lượng đạt 6.369,6 tấn, tăng 8,0% (+471,73 tấn) so với cùng kỳ. 

- Rau các loại: Diện tích gieo trồng thực hiện 6.257,66 ha, tăng 0,30% (+18,73 ha), năng suất đạt 134,62 tạ/ha, tăng 3,49% (+4,54 tạ/ha) so với cùng kỳ. Sản lượng đạt 84.242,49 tấn, tăng 1,1 % (+919,70 tấn) so với cùng kỳ. Rau được trồng chủ yếu cải các loại, cải bắp, rau bí lấy ngọn, cà chua, đậu đỗ co ve, dưa chuột, bí xanh... các lại rau phù hợp thổ nhưỡng và điều kiện thời tiết, cùng với việc một số vùng rau được bao tiêu sản phẩm, năng suất tăng là do người dân đã áp dụng khoa học trong việc trồng và chăm sóc để đạt năng suất cao hơn so với năm trước.

- Tổng diện gieo trồng cây hằng năm khác thực hiện được 3.978,33 ha, giảm 12,44% (-565,08 ha), trong đó: 

+ Cây ớt cay: Chủ yếu được trồng ở các huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Lộc Bình. Diện tích gieo trồng thực hiện được 1.979,28 ha, tăng 31,92% (+478,87 ha); diện tích gieo trồng tăng chủ yếu ở huyện Lộc Bình (+169,17 ha); Văn Quan (+94,6 ha). Diện tích cây ớt cay tăng vì cây ớt là cây trồng chủ yếu để xuất khẩu, do hiện nay hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc được thông quan thuận lợi, giá các loại nông sản xuất khẩu tăng. Sản lượng đạt 17.338,28  tấn (+3.598,97 tấn) so với cùng kỳ.

+ Cây thạch đen: Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân đạt 950,29 ha, giảm 53,18% (-1.079,26 ha), do giá cả thị trường thấp, nhu cầu xuất khẩu mặt hàng giảm, diện tích trồng trên đất rừng mới cây thạch phát triển và năng suất cao, tuy nhiên hoạt động khai thác rừng để trồng thạch không được cho phép ảnh hưởng diện tích cũng như sản lượng giảm theo. Năng suất cây thạch đạt 54,39 tạ/ha, tăng 6,91%, sản lượng đạt 5.168,84 tấn, giảm 49,94% (- 5.156,16 tấn) so với cùng kỳ.

- Vụ Mùa 

Sản xuất nông nghiệp vụ Mùa năm 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi, có nhiều đợt mưa nhỏ đảm bảo đủ lượng nước tưới cho cây trồng phát triển. Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm đầu vụ ước thực hiện được 46.050 ha, ước giảm 0,69% (-325ha) so với cùng kỳ. Trong đó, sản xuất cây trồng vụ Mùa tập trung nhiều ở cây lúa, ngô,... Tuy nhiên, đầu tháng 9 ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 gây thiệt hại lớn, theo thống kê sơ bộ đã có trên 8.172 ha cây trồng nông nghiệp bị ảnh hưởng (trong đó: 5.108 ha lúa; 2.669 ha màu...). Mùa vụ gieo trồng trên địa bàn tỉnh thường chậm hơn 1-2 tháng so với các tỉnh đồng bằng; do đó diện tích bị thiệt hại chủ yếu lúa xanh, chưa đến thời kỳ trổ bông, có thể khắc phục. Trong quý IV, hoạt động trồng trọt tập trung khắc phục hậu quả của bão, chăm sóc cây trồng, thu hoạch các loại cây có củ; chuẩn bị điều kiện để gieo trồng cây trồng vụ Đông. Cây lúa: Diện tích gieo trồng ước thực hiện 32.372 ha, giảm 0,12% (-40 ha) so với cùng kỳ; cây ngô: Diện tích gieo trồng ước thực hiện 6.209 ha, giảm 1,35% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích giảm do người dân chuyển sang trồng cây khác có giá trị cao hơn như cây ăn quả, cây rau màu khác. Do ảnh hưởng của bão, dự báo năng suất, sản lượng lúa vụ Mùa có xu hướng giảm so với cùng kỳ; năng suất và sản lượng ngô cơ bản giữ ổn định.

* Cây lâu năm 

Tính đến thời điểm cuối tháng 9, phần lớn các loại cây ăn quả đã cho thu  hoạch. Trong 8 tháng, tình hình thời tiết thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển các loại cây lâu năm, các ngành chức năng tuyên truyền chuyển diện tích một số loại cây kém hiệu quả sang trồng mới các loại cây mang lại giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện, thổ nhưỡng của địa phương như cây na, hồng, hồi, mắc ca, hạt dẻ, sâm, dược liệu khác… đào cảnh hiện nay cũng đang được quan tâm đầu tư, mở rộng diện tích gieo trồng. 

Do ảnh hưởng của bão số 3, mưa lớn kéo dài đã gây ngập úng ở nhiều nơi, gây thiệt hại về người và tài sản, trong đó khoảng 12 ha cây ăn quả các loại (Tương ứng khoảng 22.000 cây) bị thiệt hại, gãy đổ. Đến nay, cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai các biện pháp khắc phục thiệt hại do bão số 3 gây ra; thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch bệnh sau bão, lũ...

Dự ước 9 tháng đầu năm 2024, diện tích cây lâu năm toàn tỉnh Lạng Sơn là 52.286,36 ha, tăng 2,41% (+1.231,30 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó:

Cây ăn quả: Một số cây ăn quả như xoài, cam, bưởi, nhãn, vải thiều… có xu hướng giảm diện tích chủ yếu do không phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng (Diện tích xoài ước giảm 22,22 ha; cam ước giảm 15,31 ha; bưởi ước giảm 98,78 ha; nhãn ước giảm 80,10 ha, vải ước giảm 74,15 ha). Cây na, hồng tiếp tục là cây trồng ăn quả đặc sản chủ lực (Giá bán na năm nay duy trì ổn định bình quân từ 40.000 - 50.000 đồng/kg; hồng Vành khuyên đang là thời điểm thu hoạch đầu vụ, giá bán trên thị trường từ 25.000 - 30.000 đồng/kg). Bên cạnh đó, quả thanh long một vài năm gần đây được người dân rộng diện tích, chủ yếu là trồng thanh long đỏ phù hợp với chất đất của địa phương có vị ngọt thanh và mát. Giá bán dao động từ 10.000 - 15.000 đồng/kg. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mưa, bão khi cây đang ra hoa và đậu quả nên năng suất một số loại quả bị giảm.

Cây chè: Diện tích chè 404,66 ha, giảm 3,77% (-15,87 ha) so với cùng kỳ. Trong đó, diện tích trồng chè búp là chủ yếu với 375,67 ha, chiếm khoảng 92,84% trong tổng diện tích chè, giảm 4,18% (-16,37 ha) so với cùng kỳ, diện tích cây già cỗi, chết đi được chuyển đổi sang trồng các cây lâm nghiệp như thông, keo, bạch đàn, quế. Cây chè búp trồng chủ yếu ở huyện Đình Lập, ngoài ra còn trồng ở các huyện Lộc Bình, Bình Gia, Bắc Sơn. Sản lượng chè búp ước đạt 1.799,79 tấn, tăng 1,47% (+26,03 tấn) so với cùng kỳ.

Cây gia vị, cây dược liệu lâu năm với diện tích là 34.113,24 ha, tăng 4,12% (+1.350,34 ha) so với cùng kỳ, trong đó: Diện tích cây hồi là 33.613,67 ha, tăng 4,10% (+1.324,75 ha). Cây hồi là cây trồng truyền thống phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, được định hướng là một trong những cây trồng chủ lực của địa phương có giá trị kinh tế cao, hưởng lợi lâu dài, sản xuất sản phẩm từ cây hoa hồi mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân góp phần xoá đói, giảm nghèo bền vững. Nhiều hộ gia đình có thu nhập ổn định qua các năm, đã đầu tư được cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị phục vụ nhu cầu sinh hoạt của hộ dân bằng nguồn thu nhập từ cây hồi, cuộc sống của người dân từng bước được cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống của bà con. Cây hồi được trồng nhiều ở các huyện: Văn Quan, Bình Gia, Đình Lập.

* Chăn nuôi

Tổng đàn trâu: Ước tính số lượng trâu hiện có 56.157 con, giảm 13,76% (-8.959 con); số con xuất chuồng 9 tháng ước đạt 13.470 con, tương đương sản lượng xuất chuồng ước đạt 3.898,0 tấn, giảm 8,48% (-361,2 tấn) so với cùng kỳ. Tổng đàn trâu giảm do môi trường chăn thả bị thu hẹp; cơ giới hóa trong sản xuất tăng lên, số con và sản lượng xuất bán tăng do người dân thay đổi mục đích chăn nuôi gia súc lớn bán thương phẩm và một phần thiếu nhân lực chăm sóc.

Tổng đàn bò: Ước tính số lượng bò hiện có 28.919 con, tăng 0,62% (+178 con) so với cùng kỳ. Các mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt, kết hợp xử lý chất thải làm phân bón hữu cơ hiện đã và đang thực hiện đầu tư có hiệu quả. Trong 9 tháng, số con xuất chuồng ước 4.260 con, tương đương sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 1.133,5 tấn, tăng 3,86% (+42,1 tấn) so với cùng kỳ.

 

Tổng đàn lợn: Ước tính số lượng lợn hiện có 170.255 con, giảm 5,47% (-9.847 con) so với cùng kỳ, do ảnh hưởng của bệnh dịch tả lợn châu Phi (DTLCP). Số con xuất chuồng trong 9 tháng ước đạt 244.293 con, tăng 1,25% (+3.014 con), sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 19.744,9 tấn, tăng 0,87% (+169,6 tấn) so với cùng kỳ. Đến ngày 22/9/2024, bệnh dịch tả  lợn châu Phi  xảy ra tại  4.472 hộ/785 thôn/162  xã, phường/11 huyện, thành phố, làm chết và tiêu hủy 16.436 con với tổng trọng lượng 714.916 kg; các cơ quan chuyên môn đã đến cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, hiện còn 25/162 xã chưa qua 21 ngày không phát sinh dịch.

Tổng đàn gia cầm phát triển tốt, công tác phòng chống dịch bệnh luôn được quan tâm, ước tính số lượng đầu con hiện có là 4.951,3 nghìn con, tăng 2,23% (+107,8 nghìn con) so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia cầm 9 tháng đạt 13.483,0 tấn, tăng 4,01% (+519,5 tấn) so với cùng kỳ; sản lượng trứng gia cầm 9 tháng ước đạt 51.976,4 nghìn quả, tăng 1,36% (+697,9 nghìn quả) so với cùng kỳ.

1.2. Lâm nghiệp

Công tác chăm sóc, bảo vệ rừng được quan tâm, duy trì. Công tác phối hợp kiểm tra, giám sát khai thác gỗ rừng tự nhiên, gỗ rừng trồng và cây trồng phân tán trên địa bàn được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Diện tích rừng trồng mới tập trung 9 tháng ước đạt 7.389,0 ha, giảm 5,81% (-456,0 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng khai thác gỗ tròn các loại trong 9 tháng ước 419,5 nghìn m3, giảm 16,85% (-85,0 nghìn m3) so cùng kỳ. Sản lượng củi ước khai thác 485,4 nghìn ste, tăng 0,79% (3,8 nghìn ste) so cùng kỳ. Hiện nay, các ngành, chức năng đang tập trung triển khai các biện pháp khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra.

1.3. Thủy sản

Trong tháng thực hiện cung ứng được 73.600 con cá giống. Lũy kế từ đầu năm đã thực hiện cung ứng được 890.850 con cá giống các loại. (mè, trôi, trắm, chép,…). Tình hình nuôi trồng và khai thác thủy sản sản ổn định, không có dịch bệnh nguy hiểm xảy ra. Bão số 3 ảnh hưởng đến một số diện tích nuôi trồng nhưng không đáng kể. Một phần do đã được dự báo trước, người dân chủ động thực hiện các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của hoàn lưu bão.

2. Sản xuất công nghiệp

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 năm 2024

* So với tháng trước

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 tăng 16,88% so với tháng trước, do các ngành sản xuất đều tăng, cụ thể:

Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,24%, khai thác than tăng 71,35%, do Công ty Nhiệt điện Na Dương - TKV hoàn thành bảo dưỡng máy móc, dự kiến tăng sản lượng sản xuất điện so với tháng trước; Công ty than Na Dương tăng sản lượng khai thác nhằm đáp ứng một phần nguyên liệu cho sản xuất nhiệt điện (trong tháng 8, trữ lượng mỏ than, chất lượng than nguyên sinh thấp, cùng với đó nhu cầu của nhiệt điện giảm nên hoạt động khai thác than chỉ cầm chừng, sản lượng giảm sâu so với các tháng trước).

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự ước tăng 9,93%. Trong đó: ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 45,3%, do Công ty cổ phần xi măng Đồng Bành sau khi hoàn thành bảo dưỡng máy móc, dự kiến tăng sản xuất sản phẩm Clanke. Sản xuất kim loại tăng 23,76%, do Công ty Cổ phần Kim loại màu Bắc Bộ nhận được thêm đơn hàng nên tăng sản xuất so với tháng trước. Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,61%, tăng chủ yếu ở hoạt động gia công cơ khí do các cơ sở kinh doanh, xưởng sản xuất, hộ gia đình cần sửa chữa nhà xưởng bị hỏng, tốc mái sau bão. Còn các nhóm ngành khác tình hình sản xuất cơ bản ổn định và có biến động không đáng kể.

Ngành sản xuất và phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng 49,96%, do sản lượng điện sản xuất tăng 71,79% (+21,93 triệu KWh), do Công ty Nhiệt điện Na Dương - TKV hoàn thành bảo dưỡng tổ máy 2 nên dự kiến sản lượng nhiệt điện tăng so với tháng trước. 

Ngành cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải có chỉ số sản xuất tăng 4,47%, trong đó: Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,09%; hoạt động thoát nước và xử lý nước thải tăng 1,25%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu tăng 5,10%, đáp ứng nhu cầu công tác khắc phục và dọn dẹp môi trường sau bão số 3.

* So với cùng kỳ

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 so với cùng kỳ tăng 4,50%, cụ thể: 

Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,89%, chủ yếu tăng ở hoạt động khai khoáng khác tăng 53,8%, do năm 2024 tỉnh Lạng Sơn khởi công nhiều dự án xây dựng, nhu cầu đá xây dựng tăng.

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,43%, do một số sản phẩm sản xuất tăng khá so với tháng cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 30,18%, do sản phẩm chè gói có thương hiệu nên có đầu ra ổn định, nguyên liệu đảm bảo, doanh nghiệp nhận thêm nhiều đơn hàng, Công ty Cổ phần Chè Thái Bình Lạng Sơn tăng sản xuất nên sản phẩm tăng hơn so cùng kỳ. Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 32,31%, do Công ty Cổ phần thương mại sản xuất da Nguyên Hồng nhận được thêm các đơn hàng gia công từ các doanh nghiệp trong nước nên sản lượng gia công tăng. Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 29,49%, do nguyên liệu tại địa phương đáp ứng đủ cho quá trình sản xuất, các cơ sở cá thể chủ động ký kết các đơn hàng, nhu cầu tiêu thụ tăng nên sản xuất tăng. Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 39,55%, do các cơ sở kinh doanh, hộ gia đình cần sửa chữa nhà xưởng bị hỏng, tốc mái sau bão nên sản xuất tăng. Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 134,48%, sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 148,65%, các ngành này có chỉ số sản xuất tăng do các doanh nghiệp nhận được thêm đơn hàng nên tăng sản lượng sản xuất.

Ngành sản xuất và phân phối điện giảm 6,67%, giảm chủ yếu ở điện sản xuất (Sản lượng điện giảm 8,5%, tương đương với giảm 4,87 triệu Kwh) do nhà máy nhiệt điện không được huy động với công suất phát tối đa nên sản lượng điện sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn so với cùng kỳ; bên cạnh đó do giá than cao nên giá điện của Công ty Nhiệt điện Na Dương -TKV không đảm bảo cạnh tranh để tham gia thị trường.

Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,46%, do trong tháng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt tăng so với cùng kỳ, sản phẩm nước sinh hoạt trong tháng dự ước tăng 10,42% so với cùng kỳ một phần do người dân sử dụng nước vệ sinh nhà cửa, đồ dùng... sau khi bị ngập và tăng do nhu cầu sinh hoạt. Hoạt động thoát nước và xử lý nước thải dự ước tăng 6,91%. Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu tăng 12,82% do tháng 9 chịu ảnh hưởng của bão số 3 nên việc thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải tăng so cùng kỳ. 

2.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III và 9 tháng năm 2024 so với cùng kỳ

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp dự ước quý III năm 2024 giảm 6,26% so với cùng kỳ, nguyên nhân chính khiến chỉ số sản xuất giảm là do doanh nghiệp gặp khó khăn nguyên liệu đầu vào và nhu cầu thị trường giảm, trong đó một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như: Khai thác than cứng và than non giảm 59,2%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 28,17%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 13,01%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 17,92%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí giảm 26,81%. Tuy nhiên, có một số nhóm ngành có chỉ số sản xuất tăng khá cao, cụ thể: Khai khoáng khác tăng 35,17%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 31,85%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 38,13%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 31,16%; Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 80,65%; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 74,24%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh dự ước 9 tháng năm 2024 tăng 0,05% so với cùng kỳ, do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,15%, tiếp tục giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải tăng 2,86%.

Sản lượng sản phẩm 9 tháng: Một số sản phẩm có mức tăng trưởng khá cao góp phần thúc đẩy chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng như: Khai khoáng khác tăng 24,73%, do nhu cầu đá xây dựng phục vụ cho các công trình dự án lớn của tỉnh năm 2024; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 23,32%, phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong Tết Nguyên đán, các dịp các lễ, hội Xuân, dịp nghỉ lễ, … trên địa bàn tỉnh; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 37,38%, do sự phát triển kinh tế rừng tại địa phương đáp ứng đủ nguyên liệu cho sản xuất gỗ bóc, các cơ sở chủ động tìm kiếm các thị trường, ký kết được nhiều đơn hàng nên sản lượng tăng so với cùng kỳ. In, sao chép bản ghi các loại tăng 38,10%, do doanh nghiệp chuyển địa điểm, mở rộng sản xuất, nhu cầu tiêu thụ tăng nên sản lượng tăng cao hơn so cùng kỳ. Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 14,08%, sản phẩm chủ yếu là muối công nghiệp, colophan. Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 13,08%, sản xuất kim loại tăng 26,81%, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 38,67%, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 42,36%, các ngành này có chỉ số sản xuất tăng do nhu cầu thị trường tăng, các cơ sở sản xuất nhận được thêm đơn hàng nên sản xuất tăng.

2.3. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9 năm 2024 giảm 1,73% so với cùng kỳ; 9 tháng năm 2024 giảm 4,07% so với cùng kỳ, do nhu cầu thị trường giảm, sản phẩm khó tiêu thụ, trong kỳ doanh nghiệp cắt giảm khối lượng sản xuất hoặc không sản xuất. 

Chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tháng 9 năm 2024 tăng 31,03% so với cùng kỳ, chủ yếu tăng ở một số ngành như: Sản xuất chế biến thực phẩm (+125,79%), sản xuất đồ uống (+39,92%), chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ (+110,34%), sản xuất kim loại (+87,17%), sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu (+62,66%). Nguyên nhân chính các nhóm ngành trên có chỉ số tồn kho tăng là do doanh nghiệp sản xuất khối lượng lớn chờ tiêu thụ nên tồn kho tăng cao.

2.4. Chỉ số sử dụng lao động 

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 9 năm 2024 giảm 0,04% so với tháng trước và tăng 0,63% so với cùng kỳ. Chỉ số sử dụng lao động tăng so với cùng kỳ năm trước do sáp nhập doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất và doanh nghiệp nhận được thêm đơn hàng tuyển duụng thêm lao động, tăng sản xuất nhằm đáp ứng đơn hàng đã ký kết.

3. Tài chính, ngân hàng

3.1. Tài chính1 

- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn

Ước thực hiện thu NSNN trên địa bàn 9 tháng năm 2024 là 7.356.648 triệu đồng, đạt 98,2% so với dự toán tỉnh giao, tăng 29,8% so với cùng kỳ, trong đó:

Thu nội địa là 2.148.000 triệu đồng, đạt 90,1% dự toán Trung ương giao, đạt 86,4% so dự toán tỉnh giao, tăng 12,5% so với cùng kỳ. Do từ đầu năm, các ngành, các huyện, thành phố tập trung tổ chức triển khai các giải pháp quản lý thu, nhất là đối với các địa bàn, khu vực kinh tế trọng điểm, thực hiện rà soát từng nguồn thu, đánh giá tiến độ thu, từng sắc thuế; tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách miễn, giảm thuế, chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh; công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu và xử lý nợ thuế được tổ chức thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch, tập trung đối với các khoản nợ có khả năng thu; tiếp tục triển khai có hiệu quả các Đề án chống thất thu, góp phần tăng thu nội địa.

Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 5.200.000 triệu đồng, tăng 4,0% dự toán, tăng 39,1% so với cùng kỳ. Hoạt  động  xuất  nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập cảnh qua địa bàn tỉnh diễn ra thuận lợi. Các lực lượng chức năng tăng cường trao đổi với phía Trung Quốc để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu, đã 16 lần tăng thời gian thông quan (thêm 02 giờ/ngày) phục vụ xuất nhập khẩu; triển khai các biện pháp quản lý và đẩy mạnh hoạt động thông quan hàng hóa  nhờ đó hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa duy trì ổn định tại 05 cửa khẩu và 02 đường chuyên dụng, lối thông quan với hiệu suất thông quan cao, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ.

Các khoản huy động, đóng góp là 5.505 triệu đồng, giảm 64,8% so với cùng kỳ.

- Về chi ngân sách địa phương

Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 9 tháng năm là 8.932.068 triệu đồng, đạt 61,3% dự toán giao, tăng 25,8% so với cùng kỳ, trong đó: Chi cân đối ngân sách địa phương là 7.137.615 triệu đồng, đạt 59,9% dự toán, tăng 22,6% so với cùng kỳ; chi các chương trình mục tiêu, một số chương trình, dự án, nhiệm vụ khác là 1.794.453 triệu đồng, đạt 67,2% dự toán, tăng 39,9% so với cùng kỳ.

 

3.2. Ngân hàng2

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn chấp hành nghiêm túc các quy định của Nhà nước và pháp luật về hoạt động ngân hàng, tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cường huy động vốn, mở rộng đầu tư tín dụng phát triển sản xuất kinh doanh, chủ động thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, tăng cường khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế; thực hiện tốt công tác huy động vốn, đáp ứng đủ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh; giảm mặt bằng lãi suất trên cơ sở theo dõi diễn biến thị trường và định hướng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN); đẩy mạnh Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp; tích cực thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng, đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật; tập trung thực hiện tốt Chương trình Mục tiêu quốc gia; các chương trình hỗ trợ lãi suất; thực hiện triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng, hỗ trợ khách hàng thực hiện xác thực sinh trắc học theo Quyết định số 2345/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam; các giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững theo Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ. Đến nay, lãi suất của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn được duy trì ổn định ở mức thấp phù hợp với thị trường và định hướng của NHNN. Ước thực hiện đến ngày 30/9/2024, tổng huy động vốn đạt 47.939 tỷ đồng, tăng 9,4% so với 31/12/2023. Dư nợ tín dụng ước đạt 43.670 tỷ đồng, giảm 0,09% so với 31/12/2023.

Lãi suất huy động bằng VND đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng dao động ở mức 0,1% - 0,2%/năm; đối với kỳ hạn từ 01 tháng đến dưới 06 tháng dao động từ 2,0% - 4,3%/năm; kỳ hạn từ 06 tháng trở lên ở mức 3,9% - 6,0%/năm. Lãi suất huy động bằng USD tối đa đối với cá nhân và tổ chức là 0%/năm theo quy định của NHNN Việt Nam.

Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND dao động ở mức 7,0% -10,0%/năm; cho vay trung, dài hạn bằng VND dao động từ 9,00% - 11,0%/năm.

Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Lạng Sơn áp dụng mức lãi suất riêng theo quy định; lãi suất cho vay thấp nhất là 3%/năm6, lãi suất cho vay cao nhất là 9%/năm.

4. Đầu tư, xây dựng

 4.1. Tình hình vốn đầu tư thực hiện

Để đảm bảo tiến độ và chất lượng các công trình các chủ đầu tư, cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm, kiểm soát kế hoạch thực hiện và giải ngân chi tiết theo tháng, quý, thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo định kỳ, để kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, tập trung tháo gỡ, xử lý các điểm nghẽn trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, nhất là dự án đầu tư lớn, trọng điểm trên địa bàn tỉnh có tính kết nối, tác động lan tỏa tới sự phát triển liên vùng và địa phương, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện; nhiều công trình đầu tư xây dựng của khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình cũng được khởi công xây dựng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương trong thời gian qua.

Tổng vốn đầu tư thực hiện trên quý III năm 2024 trên địa bàn tỉnh đạt 6.716,8 tỷ đồng, tăng 8,53% (tương đương tăng 527,9 tỷ đồng) so với cùng kỳ. Phân theo nguồn vốn: Vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn thực hiện đạt 1.485,6 tỷ đồng, giảm 4,65% (- 72,5 tỷ đồng) so với cùng kỳ; vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngoài Nhà nước đạt 5.230,7 tỷ đồng, tăng 13,33% (+ 615,2 tỷ đồng); vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn đầu tư trưc tiếp nước ngoài quý III năm 2024 đạt 500 triệu đồng. Phân theo khoản mục đầu tư: Đầu tư xây dựng cơ bản đạt 5.192,9 tỷ đồng, chiếm 77,31%; đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua xây dựng cơ bản ước đạt 952,7 tỷ đồng, chiếm 14,18%; vốn đầu tư sửa chữa lớn nâng cấp tài sản cố định ước đạt 571,2 tỷ đồng, chiếm 8,50%; vốn bổ sung vốn lưu động dưới dạng hiện vật bằng vốn tự có 1,1 tỷ đồng chiếm 0,02% trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn.

Tổng vốn đầu tư thực hiện 9 tháng năm 2024 ước đạt 16.353,5 tỷ đồng, tăng 10,90% (+ 1.607 tỷ đồng) so với cùng kỳ, trong đó: Vốn Nhà nước trên địa bàn ước đạt 3.829,4 tỷ đồng, tăng 1,32% (+ 49,8 tỷ đồng) so với cùng kỳ; vốn ngoài Nhà nước 12.522,2 tỷ đồng, tăng 14,56% (+ 1.591,6 tỷ đồng) so với cùng kỳ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1,86 tỷ đồng.

 

4.2. Tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh

Dự án tuyến Cao tốc cửa khẩu Hữu Nghị - Chi Lăng theo hình thức BOT (nguồn vốn Nhà nước do địa phương quản lý), công trình có tổng mức đầu tư 5.000 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2024 ước thực hiện được 285 tỷ đồng, đạt 5,69% so với kế hoạch.

Dự án Đường tránh ngập vào trung tâm các xã nghèo miền núi 30A, Cường Lợi - Đồng Thắng - Lâm Ca (huyện Đình Lập), công trình có tổng mức đầu tư 542,8 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2024 ước thực hiện được 384,8 tỷ đồng, đạt 70,87% so với kế hoạch.

Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Tổng mức đầu tư 1.214,5 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2024 ước thực hiện được 971,6 tỷ đồng, đạt 80% kế hoạch.

Dự án Đường giao thông kết nối Quốc lộ 4B đến Quốc lộ 18, huyện Đình Lập: Tổng mức đầu tư 338,9 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 9/2024 ước thực hiện được 133,6 tỷ đồng, đạt 39,42% kế hoạch. 

5. Tình hình doanh nghiệp

Từ đầu năm đến hết tháng 8 năm 2024, toàn tỉnh có 934 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 120,28% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký đạt 6.848 tỷ đồng, tăng 94,27%; có 521 doanh nghiệp gửi thông báo tạm ngừng hoạt động tăng 78,42% và cũng có 105 doanh nghiệp giải thể tăng 87,50% so với cùng kỳ.

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên tổng số 33 doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo hỏi về xu  hướng  kinh doanh. Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý III năm 2024 so với quý trước: 27,27% doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 36,36% doanh nghiệp giữ ổn định; 36,36% số doanh nghiệp cho rằng sản xuất kinh doanh khó khăn hơn.  

Tổng quan tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) của các doanh nghiệp ngành xây dựng trong quý III năm 2024, có 16,30% doanh nghiệp có kết quả  SXKD thuận lợi hơn;  49% doanh nghiệp giữ ổn định và 34,70% doanh nghiệp gặp khó khăn hơn (chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài nhà nước). 

6. Thương mại và dịch vụ

Hoạt động thương mại và dịch vụ cung ứng hàng hóa diễn ra trên thị trường ổn định, các mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân. Các ngành chức năng tiếp tục tập trung phát triển thương mại điện tử, các loại hình thương mại dựa trên nền tảng số hóa. Tăng cường công tác quản lý giá, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Thường xuyên nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã; thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo các nghị quyết của Chính phủ, của tỉnh.

Tại các chợ truyền thống, trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, các hệ thống phân phối hàng hoá đảm bảo nguồn hàng cung ứng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và trên địa bàn tỉnh không có hiện tượng khan hiếm hàng hoá hoặc tăng giá đột biến... 

Các chương trình, hoạt động của tỉnh đã góp phần thúc đẩy thương mại, dịch vụ du lịch phát triển so với cùng kỳ như: Lễ hội Hoa đào Xứ Lạng 2024 với chủ đề “Lung linh sắc đào - Tỏa sáng vươn xa”; hoạt động thể dục, thể thao tổ chức giải Việt dã Mùa Xuân và biểu diễn Võ thuật, Lân rồng, giải đua Bè mảng trên Sông Kỳ Cùng năm 2024; giải chạy việt dã, chủ đề “Mẫu Sơn Mount Paths” đã thu hút đông đảo khách du lịch, vận động viên tham gia. Trong các ngày nghỉ lễ với thời gian kéo dài, tổ chức nhằm thu hút du khách như: Triển lãm chuyên đề “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại”; huyện Bắc sơn tổ chức Ngày hội du lịch sinh thái và trải nghiệm; thành phố Lạng Sơn tăng thời gian mở cửa Phố đi bộ Kỳ Lừa trong các ngày nghỉ lễ với rất nhiều hoạt động văn nghệ, nghệ thuật đặc sắc phục vụ du khách; …

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2024 đạt 27.068,7 tỷ đồng (chưa bao gồm doanh thu dịch vụ thông tin truyền thông và chuyên môn khoa học), tăng 12,86% so với cùng kỳ.

6.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Do ảnh hưởng của bão số 3, trước và trong thời điểm bão, nhu cầu mua sắm, tích trữ lương thực, thực phẩm tăng. Sau ảnh hưởng của bão, nhu cầu mua sắm các mặt hàng thiết yếu, gia dụng, trang thiết bị gia đình để sửa, thay thế vật dụng hỏng có xu hướng tăng. 

Doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 9 so với tháng trước, tăng 2,03% do nhu cầu thị trường tăng, trong đó: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 1,28%, nhóm hàng may mặc tăng 6,86% và nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 7,2% do nhu cầu mua trang phục, đồng phục chuẩn bị năm học mới; nhóm ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 2,23% và doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 3,79% do nhiều phương tiện giao thông bị ảnh hưởng sau cơn bão số 3. Nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 3,16% do nhu cầu mua sắm phục vụ đám cưới, đám hỏi sau khi tháng 7 âm lịch kết thúc và tăng do ảnh hưởng của giá vàng thế giới tăng. Riêng nhóm nhóm gỗ và vật liệu xây dựng giảm 2,23% do trong tháng mưa nhiều, các công trình không đẩy nhanh được tiến độ thi công.

Doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2024 ước đạt 23.692,4 tỷ đồng,  tăng 14,1% so với cùng kỳ. Do một số nhóm ngành hàng tăng cao so với cùng kỳ: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 6.976,1 tỷ đồng, tăng 16,48% so với cùng kỳ; nhóm ô tô con ước đạt 134,4 tỷ đồng, tăng 29,30%; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 3.638,1 tỷ đồng, tăng 24,10% so với cùng kỳ; nhóm hàng hóa khác ước đạt 1.032,6 tỷ đồng, tăng 18,87%;...

 6.2. Dịch vụ

* Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 9 năm 2024 ước đạt 234,8 tỷ đồng, tăng 13,96% so với cùng kỳ; ước 9 tháng năm 2024 đạt 2.075,1 tỷ đồng, tăng 13,36% so với cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ lữ hành đạt 2,0 tỷ đồng, tăng 4,79% so với cùng kỳ; ước 9 tháng năm 2024 đạt 18,5 tỷ đồng, tăng 14,32% so với cùng kỳ.

Để thu hút khách du lịch tỉnh đã tổ chức các chương trình văn hóa đặc sắc như: Giao lưu hát dân ca tổ chức vào ngày 2/9 tại khuôn viên tượng đài đồng chí Hoàng Văn Thụ; Bảo tàng tỉnh mở cửa đón khách tham quan suốt 4 ngày nghỉ lễ; các hoạt động sôi nổi, hấp dẫn tại Phố đi bộ Kỳ Lừa; hoạt động hội chợ kích cầu hàng tiêu dùng thành phố Lạng Sơn 2024. Các điểm du lịch trên địa bàn đã thu hút được lượng du khách trong và ngoài tỉnh đến thăm quan, trải nghiệm, nghỉ dưỡng trong các kỳ nghỉ lễ như: Khu du lịch sinh thái Đồng Lâm (xã Hữu Liên, huyện Hữu Lũng); Suối Mỏ Mắm (xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn); Làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn (huyện Bắc Sơn); Khu du lịch Mẫu Sơn (huyện Lộc Bình), Thác Bản Khiếng (huyện Lộc Bình); Núi nàng Tiên (huyện Bình Gia); các nhà vườn trồng dẻ ở Quảng Lạc (thành phố Lạng Sơn) … 

* Doanh thu dịch vụ khác

Doanh thu dịch vụ khác tháng 9 năm 2024 ước đạt 148,0 tỷ đồng, tăng 1,59% so với tháng trước và giảm 9,93% so với cùng kỳ. Cộng dồn 9 tháng ước đạt 1.282,7 tỷ đồng, giảm 10,39% so với cùng kỳ. Trong đó, một số nhóm dịch vụ tăng cao so với cùng kỳ như: Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí ước đạt 113,9 tỷ đồng, tăng 15,52%; dịch vụ giáo dục và đào tạo ước đạt 83,1 tỷ đồng, tăng 32,5%; nhóm dịch vụ hành chính và hỗ trợ ước đạt 110,3 tỷ đồng, tăng 8,18%;... Bên cạnh đó còn những nhóm dịch vụ giảm như: Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 7,9%; dịch vụ khác giảm 16,95%  do nhu cầu người dân sử dụng dịch vụ giảm.

 

6.3. Vận tải

Dự ước doanh thu vận tải, kho bãi tháng 9 đạt 211,5 tỷ đồng, tăng 10,27% so với cùng kỳ. Trong đó; doanh thu vận tải hành khách đạt 26,6 tỷ đồng, tăng 8,31%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 100,6 tỷ đồng, tăng 12,78%; doanh thu hoạt động kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 83,9 tỷ đồng, tăng 8,01%; doanh thu hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 0,3 tỷ đồng, tăng 10,26%. 

Trong 9 tháng, tình hình xuất nhập khẩu diễn ra tương đối thuận lợi do phía Trung Quốc  phối hợp với hải quan liên tục tăng ca để kịp thời thông quan các xe hàng; số lượng khách đi du lịch sau Tết và sinh viên, người lao động di chuyển đi học, đi làm tăng cao so với cùng kỳ năm trước; lưu lượng xe chở hàng hóa thông quan tăng dẫn đến nhu cầu lưu bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng.

Nhu cầu đi lại của người dân tăng cao vào các dịp nghỉ lễ 30/4 - 1/5 và nghỉ lễ 2/9 và ý thức của người tham gia giao thông dần hình thành thói quen, văn hóa “Đã uống rượu bia không lái xe” cũng tạo tiền đề cho ngành dịch vụ vận tải taxi phát triển. Hiện tại taxi điện của Lạng Sơn đã và đang được triển khai trên điện bàn tỉnh, bổ sung nguồn cung dịch vụ cho người dân địa phương nói riêng và du khách thập phương nói chung, tốt cho sức khỏe con người và môi trường. Bên cạnh đó hoạt động vận tải hàng hóa cũng tăng do nhu cầu vận chuyển hàng hóa đi tiêu thụ và nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng đến các công trình cũng tăng theo để kịp thời hoàn thiện.

Dự ước doanh thu vận tải kho bãi 9 tháng năm 2024 đạt 1.890,7 tỷ đồng, tăng 9,18% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 242,5 tỷ đồng, tăng 10,37%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 898,1 tỷ đồng, tăng 12,13%; doanh thu hoạt động kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 747,6 tỷ đồng, tăng 5,48%; doanh thu hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 2,5 tỷ đồng, tăng 7,7% so với cùng kỳ.

 

6.4. Hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) 

Trong Quý III năm 2024, hoạt động XNK trên địa bản tính Lạng Sơn cơ bản được duy trì ôn định qua các của khẩu (Hữu Nghị, Ga đường  sắt quốc tế Đồng Đăng, Chỉ Ma, Tân Thanh) và 02 đường chuyên dụng, lối thông quan với hiệu suất thông quan cao; trung bình khoảng 1.300 lượt xe/ngày, cao điểm lên đến 1.500 xe/ngày. Chi cục Hải quan Cốc Nam không phát sinh hàng hóa nhập khẩu chỉ phát sinh một số ít hàng hóa xuất khẩu; trong Quý, cửa khẩu phụ Na Hình, cửa khẩu phụ Nà Nưa không phát sinh hàng hóa xuất nhập khẩu, cửa khẩu phụ Bình 'Nghỉ chưa được khôi phục thông quan trở lại.

Quý III, là thời điểm chính vụ của nông sản hoa quả tươi trong nước xuất khẩu, do vậy lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu tại cửa khẩu Hữu Nghị, Chỉ Ma và Tân Thanh sẽ tăng hơn so với các tháng trước. Để tránh ùn tắc tại khu vực cửa khẩu, giảm thiểu tối đa các chỉ phí phát sinh cho doanh nghiệp, Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn đã chủ động phối hợp với lực lượng chức năng thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực thông quan, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp có hoạt động XNK qua địa bàn. Bên cạnh đó, công tác hội đàm trao đổi với các cơ quan tương ứng phía nước bạn Trung Quốc được Lãnh đạo Cục đặc biệt quan tâm.

Lũy kế từ 01/01 năm 2024 của tắt cả các loại hình XNK (kinh doanh, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, vận chuyển độc lập) đạt 42.774,61 triệu USD, tăng 31,62% so với cùng kỳ. Trong đó, lũy kế kim ngạch hàng hóa XNK mở tờ khai tại Cục Hải quan Lạng Sơn đạt 3.659,93 triệu USD, tăng 11,9% sơ với cùng kỳ  (kim ngạch xuất khẩu đạt 1.657,05 triệu USD, giảm 8,256 so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu đạt 2.002,87 triệuUSD, tăng 37,6% so với cùng kỳ).

Hành khách xuất nhập cảnh phát sinh trong quý III năm 2024 là 701.615 lượt (Khách xuất cảnh là 349.084 lượt, khách nhập cảnh là 352.531 lượt). Lũy kể rừ 01/01 năm 2024 hành khách xuất nhập cảnh là 1.850.718 lượt (Khách xuất cảnh là 859,589 lượt, khách nhập cảnh là 991.129 lượt).

Thu phí sử dụng hạ tầng cửa khẩu đạt 152.94 tỷ đồng với 114.809 lượt phương tiện. Lữy kể từ đầu năm đạt 414,1 tỷ đồng với 325.897 lượt phương tiện 

7. Chỉ số giá 

7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 9 năm 2024

* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2024 so với tháng trước 

Chỉ số giá tháng 9 năm 2024 giảm 0,66% so với tháng trước, chủ yếu giảm ở nhóm nhóm giáo dục giảm 14,74%; nhóm giao thông  giảm 2,88%, nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%.

Chỉ số giá nhóm giao thông  giảm 2,88%, các nhóm có chỉ số giảm trong kỳ gồm: Phương tiện đi lại giảm 0,06%, nhiên liệu giảm 7,34% (xăng giảm 7,35%, dầu diezel giảm 8,73%), dịch vụ giao thông công cộng giảm 0,67%. Giá xăng, dầu biến động tăng, giảm theo giá nhiên liệu thế giới, tính đến ngày 25/9/2024, trong tháng có 3 kỳ điều chỉnh (ngày 05/9; ngày 12/9; ngày 19/9).

Chỉ số giá nhóm giáo dục giảm 14,74%, giảm  chủ yếu ở nhóm dịch vụ giáo dục giảm 19,25%  do học phí năm học 2024-2025 trên địa bàn tỉnh được áp dụng và thực hiện theo Nghị quyết số 10/2024/NQ-HĐND ngày 23/07/2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

Chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%, nhóm này giảm chủ yếu ở các mặt hàng về thiết bị điện thoại di động giảm 0,03%. 

Chỉ số giá của 8 mặt nhóm hàng tăng, trong đó:

+ Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,31%, chia ra: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng 0,25%, chủ yếu tăng gạo tăng 0,40%; lương thực chế biến tăng 0,07%. Chỉ số giá nhóm thực phẩm tăng 0,4%, tăng chủ yếu ở một số mặt hàng như: Thịt lợn tăng 0,19%, nội tạng động vật tăng 0,46%; thịt gà tăng 0,81%; thịt quay, giò, chả tăng 0,15%; trứng các loại tăng 0,13%; nhóm dầu mỡ ăn và chất béo khác tăng 0,52%; thuỷ sản tươi sống tăng 0,35%; nhóm các loại rau tươi, khô và chế biến tăng 1,8% do trong tháng một số loại rau củ thời điểm cuối, trái vụ thu hoạch và bị ảnh hưởng bởi thời tiêt mưa lớn. Chỉ số giá nhóm ăn, uống ngoài gia đình tăng 0,01%.

+ Chỉ số giá đồ uống và thuốc lá tăng 0,12%, nhóm này tăng chủ yếu ở mặt hàng thuốc lá, tăng 0,52%.

+ Chỉ số giá mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,03%, tăng tập trung ở một số nhóm mặt hàng như: Giầy dép tăng 0,11%; dịch vụ may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,05%; các mặt hàng khác nhìn chung là ổn định so với tháng trước. 

+ Chỉ số giá nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,2%, diễn biến giá một số mặt hàng trong nhóm như sau: Nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi tăng 0,06%, dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,59%, điện sinh hoạt tăng 0,15%, giá gas và các loại chất đốt khác tăng 1,37%. 

*Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2024 so với cùng kỳ 

Chỉ số giá tháng 9 năm 2024 tăng 1,88% so với cùng kỳ, tăng chủ yếu ở 08 nhóm hàng hóa tiêu dùng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống  tăng 4,04%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,75%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,82%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dụng tăng 3,88%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,72%; nhóm thuốc và dụng cụ y tế tăng 11,18%; nhóm văn hoá, giải trí, du lịch tăng 0,62%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 4,04%. 

7.2. Chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng năm 2024

Chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng năm 2024, tăng 2,93% so với cùng kỳ, gồm 09 nhóm tăng giá và 02 nhóm giảm giá. Nguyên nhân chính tác động tăng chỉ số giá là do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi dẫn đến giá cả thịt lợn tăng; do nhu cầu tiêu thụ thực phẩm, đặc biệt là các thực phẩm chế biến sẵn và một phần tác động gián tiếp từ việc tăng lương, tăng các dịch vụ liên quan tiền lương, dịch vụ xã hội, dẫn đến việc tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Giá cả một số nhóm hàng tăng như: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,70%; nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 4,28%; nhóm may mặc, mũ nón giầy dép tăng 0,84%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,28%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 3,35%; thuốc và dụng cụ y tế tăng 11,25%, nhóm giao thông tăng 0,83% (tính từ đầu năm đến nay, cơ quan điều hành đã thực hiện 35 kỳ điều chỉnh giá xăng dầu), nhóm văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,93%; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 3,41%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,49%, giáo dục giảm 1,16% so với cùng kỳ.

 

7.3. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng: Tháng 9 năm 2024, giá vàng trong nước tiếp tục biến động tăng, giảm theo giá vàng thế giới. Trên xu hướng giá vàng trong nước tăng cao trong thời gian vừa qua, giá vàng trên địa bàn tăng 2,3% so với tháng trước, tăng 37,79% so với cùng kỳ, tăng 97,92% so với giá gốc 2019. Bình quân 9 tháng đầu năm, chỉ số giá vàng tăng 27,12% so với cùng kỳ.

 Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 1,69% so với tháng trước, tăng 2,53% so với cùng kỳ và tăng 6,96% so với năm gốc năm 2019. Bình quân 9 tháng đầu năm, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 1,91% so với cùng kỳ.

8. Giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội 3

Tổng số lượt người được tư vấn về chính sách pháp luật lao động,việc làm, định hướng nghề và giới thiệu việc làm: 2.229 lượt người giảm 18,94 % so với cùng kỳ (2.750 lượt người), Lũy kế 21.031 lượt người. Chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài EPS: Người lao động xuất cảnh: 05 người, lũy kế 69 người.

Chương trình phối hợp thực hiện đưa người lao động trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đi làm việc tại Bằng Tường, thành phố Sùng Tả Quảng Tây (Cơ chế hợp tác quản lý lao động qua biên giới): Số người lao động được tư vấn: 17 người, lũy kế 27 người. Số người được giới thiệu: 10 người. Số người được xuất cảnh: 10 người, lũy kế 20 người.

Xem xét, thẩm định, thông báo chấp thuận 16 vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh của 04 lượt doanh nghiệp; Thẩm định, cấp 15 giấy phép lao động, trong đó cấp mới 12 giấy phép lao động, gia hạn 03 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Xác nhận thu hồi giấy phép lao động của 02 người lao động nước ngoài làm việc tại 01 đơn vị; phối hợp cung ứng, giới thiệu lao động Việt Nam cho 01 nhà thầu thực hiện dự án Nhà máy nhiệt điện Na Dương II.

Số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế tăng thêm 25.979 người so với cùng kỳ. Tổng số thu Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm  y tế, Bảo hiểm thất nghiệp ước đạt 1.433,7 tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ. Tổng chi 2.485,8 tỷ đồng, tăng 22,0%. Tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động đạt 20,3%.

Số người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp là 389 người, giảm 26,46% so với cùng kỳ, lũy kế từ đầu năm 2024 là 4.596 người; thực hiện thu hồi tiền hưởng trợ cấp thất nghiệp: 02 trường hợp số tiền 22.822.500 đồng. Lũy kế thu hồi 13 người, số tiền 58.406.280 đồng.

Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 3.529 người có công và thân nhân với kinh phí 8.366,7 triệu đồng10, luỹ kế chi trả trợ cấp cho 32.186 lượt người có công và thân nhân với kinh phí 75.488,3 triệu đồng11. Kết quả rà soát, làm sạch dữ liệu và thực hiện cập nhật lên Cơ sở dữ liệu chuyên ngành của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là 3.585 người.

9. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng4 

Tiếp tục tăng cường thực hiện Cải cách hành chính, kỷ luật kỷ cương hành chính; đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ chuyển đổi số, trong đó tập trung chỉ đạo hoàn thành triển khai mô hình “khám chữa bệnh sử dụng sinh trắc học, Kiosk tự phục vụ” tại Bệnh viện đa khoa tỉnh; tiếp tục triển khai và hoàn thành gói thầu nền tảng số, gói thầu chỉnh lý tài liệu lưu trữ năm 2024 tại Sở Y tế.

Trong tháng 9, khám được 114.541 lượt, cộng dồn 09 tháng khám được 1.017.429 lượt, đạt 70,4% kế hoạch năm, điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã 13.953 lượt, cộng dồn được 108.699 lượt, đạt 69,7% kế hoạch năm, điều trị ngoại trú 11.428 lượt, cộng dồn được 102.964 lượt, đạt 111,9%.

Khám chữa bệnh tại các cơ sở ngoài công lập khám được 30.999 lượt (cộng dồn 261.033 lượt), trong đó khám bảo hiểm y tế 26.747 lượt (cộng dồn 25.1471 lượt); chuyển tuyến 1.172 lượt (cộng dồn 10.191 lượt); khám sức khỏe 2.965 lượt (cộng dồn 21.705 lượt) (trong đó, khám sức khỏe: 1.389 lượt (cộng dồn 9.161 lượt), khám sức khỏe lái xe 1.580 lượt (cộng dồn 12.548 lượt).

Số trẻ dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin tháng 8/2024 (từ 01/8 đến 31/8/2024) là 870 trẻ; cộng dồn (01/01-31/8/2024) là 6.188/6.375 trẻ. Số trẻ em được tiêm vắc xin phòng bệnh viêm gan B < 24 giờ trong tháng là 785/889 trẻ, cộng dồn (01/01-31/8/2024) là 5.648/6.362 trẻ. Số phụ nữ có thai tiêm đủ AT2+ trong tháng là 878 người, cộng dồn (01/01-31/8/2024) là 5.009/6.375 người. Duy trì kết quả loại trừ uốn ván sơ sinh theo qui mô huyện ≤ 1 trường hợp/trẻ đẻ sống. Đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch giao.

Công tác Kiểm dịch y tế biên giới: Kiểm dịch y tế cho 186.905 lượt khách nhập cảnh và 189.532 lượt khách xuất cảnh. Lũy kế 9 tháng đầu năm, số lượt khách nhập cảnh kiểm dịch y tế đạt 1.038.224 lượt và số lượt khách xuất cảnh đạt 1.032.199 lượt. Về phương tiện, đã có 36.931 xe nhập khẩu và 13.763 xe xuất khẩu được kiểm dịch trong tháng 9, với tổng cộng 221.421 xe nhập khẩu và 105.512 xe xuất khẩu. Trọng lượng hàng hóa nhập khẩu được kiểm dịch trong tháng 9 đạt 450.422 tấn, cộng dồn là 2.783.809 tấn; hàng xuất khẩu trong tháng 9 đạt 246.268 tấn, cộng dồn là 2.093.952 tấn.

10. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch5 

Về nghệ thuật biểu diễn: Tổ chức giao lưu 03 chương trình nghệ thuật với nước bạn Trung Quốc "Đêm văn nghệ chào Xuân Việt - Trung năm 2024" nhân dịp tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024 tại thị Bằng Tường, Quảng Tây, Trung Quốc; Giao lưu nghệ thuật năng 2024 giữa đoàn nghệ thuật Thị Bằng Tường, Quảng Tây, Trung Quốc với Trung tâm Văn hóa nghệ thuật chào mừng Lễ hội Kỳ cùng - Tả phủ; “Liên hoan văn nghệ nhân dân biên giới Trung-Việt năm 2024”. Tham gia Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ XV - Bắc Kạn năm 2024 (từ ngày 22/8/2024 - 26/8/2024); Tham gia Liên hoan Ca, Múa, Nhạc chuyên nghiệp toàn quốc năm 2024 tại tỉnh Vĩnh Phúc (Từ ngày 11/9/2024 - 20/9/2024). Tính đến ngày 09/9/2024 đã thực hiện biểu diễn được 79/110 chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp phục vụ các nhiệm vị chính trị, các ban ngành, 7 cơ sở và vùng sâu, vùng xa (đạt 71,8% Kế hoạch giao).

Về thư viện: Phục vụ bạn đọc tại chỗ 103.068 lượt độc giả, thực hiện luân chuyển sách 249.145 lượt; phục vụ xe Thư viện lưu động 40 buổi. Tiếp nhận và xử lý nghiệp vụ sách từ nguồn biếu tặng 260 tên sách; 1.212 bản sách; trị giá: 82.080.500 đồng.

Về điện ảnh: Thực hiện 667 suất chiếu; phục vụ 8.917 lượt người xem; số phim chiếu là 90 phim; trong 9 tháng đầu năm 2024 các Đội chiếu bóng lưu động thực hiện được 1.236/1.670 buổi chiếu, đạt 74% kế hoạch năm 2024.

Về văn hóa dân tộc: Tổ chức lớp truyền dạy thực hành, trình diễn hát Tú sỉ na miẻo người Mông Đen, xã Cao Minh, huyện Tràng Định theo Kế hoạch thực hiện Đề án bảo tồn dân ca, dân vũ, dân nhạc năm 2024; Tổ chức lớp truyền dạy Hát Sình Ca dân tộc Cao Lan, xã Thiện Tân, huyện Hữu Lũng.

Về thể dục, thể thao: Tổ chức tháng hoạt động Thể dục thể thao cho mọi người và Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 202414. Tổ chức Lễ khai mạc hè, Ngày Olympic trẻ em và Phát động toàn dân tập luyện môn Bơi phòng, chống đuối nước năm 2024. Tham dự giải Bóng chuyền hơi “Siêu huyện” Trung - Việt tại thị Bằng Tường, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 26-28/4/202419. Tham dự Cuộc đua xe đạp Trung - Việt tại thị Bằng Tường, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18/5/2024. Tham dự giải đua Xe đạp địa hình tỉnh Bắc Kạn mở rộng trong Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” năm 2024 tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn từ ngày 24-26/8/2024.

Tổng lượng khách 9 tháng năm 2024 đạt 3.661.000 lượt khách, tăng 5,6% so với cùng kỳ, đạt 90,1% so với kế hoạch năm 2024, trong đó: Khách quốc tế là 105.000 lượt khách, tăng 315,6% so với cùng kỳ, đạt 65,5% so với kế hoạch năm 2024. Khách trong nước là 3.556.000 lượt khách, tăng 3,4% so với cùng kỳ, đạt 91,1% so với kế hoạch năm 2024. Tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý hoạt động lữ hành, các doanh nghiệp lữ hành đã thực hiện nghiêm túc các quy định trong hoạt động kinh doanh, tổ chức việc đưa, đón khách đảm bảo an toàn, an ninh. Trong 9 tháng đầu năm 2024 đã tiếp nhận và giải quyết 33 hồ sơ. Trong đó, đã thực hiện cấp thẻ cho 31 hướng dẫn viên du lịch.

11. Giáo dục  

Tổ chức Hội nghị tổng kết công tác thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) năm 2024 và tuyển sinh lớp 10 năm học 2024 - 2025; Tổng kết Hội khỏe Phù Đổng tỉnh Lạng Sơn lần thứ XI năm 2024. Hội nghị Hiệu trưởng; đánh giá công tác tổ chức dạy học lớp 8, lớp 11 năm học 2023-2024 và triển khai công tác tổ chức dạy học lớp 9, lớp 12 năm học 2024-2025. Hội nghị tổng kết Công tác tổ chức Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2024 - 2025 và Kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2024.

Tổ chức bồi dưỡng mô đun 9 cho cán bộ quản lý cấp THCS (đợt 2). Triển khai đăng kí mô hình dạy học đáp ứng đổi mới PPDH, KTĐG các trường trung học năm học 2024-2025.

Tổ chức Khai giảng năm học 2024-2025; tổ chức thi tuyển viên chức vòng 2 năm 2024; thực hiện các bước tiếp theo của Dự án thu thập cơ sở dữ liệu ngành; tiếp tục triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của tỉnh, văn bản hướng dẫn của ngành tới các đơn vị trực thuộc. 

12. Trật tự - An toàn giao thông6 

Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Triển khai công tác quốc phòng địa phương; giáo dục quốc phòng, an ninh; thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng và an ninh theo kế hoạch. Trong tháng xảy ra 28 vụ tai nạn giao thông, làm chết 05 người, bị thương 29 người; lũy kế từ đầu năm xảy ra 333 vụ, làm chết 63 người, bị thương 308 người.

13. Môi trường

Trong tháng phát hiện 08 vụ vi phạm môi trường, giảm 16 vụ so với cùng kỳ, tăng 02 vụ so với tháng trước; khởi tố 01 vụ về tội hủy hoại rừng; xử phạt hành chính 03 vụ với số tiền phạt 9 triệu đồng, tăng 7,5 triệu đồng so với tháng trước. Lũy kế từ đầu năm 2024, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn phát hiện 159 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 116 vụ với tổng số tiền phạt là 475,3 triệu đồng.

14. Thiệt hại do thiên tai

Tháng 9 năm 2024, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 và mưa lớn sau bão, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã chịu ảnh hưởng lớn gây thiệt hại về người, nhà cửa và hoa màu: 03 người chết; bị thương 10 người do nguyên nhân do bị tấm lợp Fibro xi măng rơi xuống đầu, bị cây đổ vào người và do sạt lở đất; 12.454 ngôi nhà của hộ  gia đình bị thiệt hại; 80 công trình khác bị hư hại như trụ sở Công an xã, nhà văn hóa thôn, trường học và điểm bưu điện xã,...); trên 8.172 ha đất nông nghiệp bị ảnh hưởng (trong đó 5.108 ha lúa, 2.669 hoa màu); trên 18.445 ha đất lâm nghiệp trồng bạch đàn, keo, mắc ca, hồi, thông bị ảnh hưởng.

Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây