Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn tháng 3 và Quý I năm 2023

Thứ tư - 29/03/2023 22:33
Tổng mức bán lẻ hàng hóa quý I/2023 ước đạt 6.491 tỷ đồng, tăng 17,31% so với cùng kỳ năm trước.
Bước vào năm 2023, ngay từ đầu năm Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp về thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2023, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; Tăng cường các biện pháp thông quan để phục vụ xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh sau khi Trung Quốc thay đổi chính sách phòng, chống dịch Covid-19; thúc đẩy giao thương nông sản, thủy sản Việt - Trung trong bối cảnh mới. Thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiến hành khảo sát, lập đề xuất các dự án trên địa bàn tỉnh. Khẩn trương thực hiện và giải ngân thanh toán, quyết toán các dự án, thực hiện các chương trình sử dụng vốn đầu tư công năm 2022, triển khai thực hiện các chương trình, dự án đầu tư xây dựng theo kế hoạch năm 2023. Kết quả tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I năm 2023 đạt được một số kết quả như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp

Quý I, thời tiết khô hạn, ít mưa ảnh hưởng tới tiến độ gieo trồng cây vụ Đông Xuân, người dân tập trung làm đất gieo trồng vụ Xuân 2023, thu hoạch các cây rau màu vụ Đông năm 2023 đảm bảo đúng thời vụ.
 1.1.1. Trồng trọt
* Cây hàng năm: Tính đến trung tuần tháng 3/2023, toàn tỉnh đã thu hoạch xong vụ Đông 2023, diện tích gieo trồng thực hiện được 4.102,81 ha, tăng 4,05% (+159,77 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng tăng chủ yếu ở cây ớt cay do thị trường xuất khẩu ổn định, được giá nên người dân mở rộng diện tích gieo trồng.
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng vụ Xuân trong quý I ước thực hiện 3.340,0 ha, tăng 0,12% so với cùng kỳ, diện tích trên chủ yếu trồng các huyện Hữu Lũng và Tràng Định.
- Cây ngô: Diện tích thu hoạch vụ Đông thực hiện được 213,84 ha, tăng 24,94% (+42,68 ha), diện tích gieo trồng tăng chủ yếu do huyện Tràng Định chuyển từ trồng cây thạch đen; năng suất đạt 45,84 tạ/ha, tăng 1,04% (+0,47 tạ/ha); sản lượng đạt 980,32 tấn, tăng 203,77 tấn so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng vụ Xuân trong quý I ước thực hiện 7.839,73 ha, giảm 0,8% (-63 ha), người dân hiện nay đang tiếp tục làm đất, gieo trồng.
- Cây khoai lang: Diện tích thu hoạch vụ Đông thực hiện được 42,26 ha, giảm 44,87% (-34,39 ha) so với cùng kỳ, diện tích giảm chủ yếu ở huyện Lộc Bình, Cao Lộc (xã Gia Cát) do nhà nước thu hồi đất triển khai các công trình dự án làm đường, một phần diện tích chuyển sang gieo trồng ở vụ xuân và khoai tây; nhu cầu tiêu dùng của người dân ít, sản phẩm khoai chủ yếu là bán lẻ tại địa bàn và tiêu thụ chậm, hiệu quả trồng khoai lang thấp; năng suất đạt 67,16 tạ/ha, giảm 0,94% (-0,64 tạ/ha), sản lượng đạt 283,82 tấn (-235,87 tấn) so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng vụ Xuân trong quý I ước đạt 199,11 ha, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước.
- Rau các loại: Diện tích thu hoạch vụ Đông thực hiện được 2.209,38 ha, tăng 1,41% (+30,74 ha) so với cùng kỳ, trong đó sản lượng rau các loại đạt 29.567,83 tấn, tăng 1,18% (+345,45 tấn), do năm 2023, dịch Covid-19 đã được kiểm soát nên rau các loại đã được người dân mở rộng gieo trồng ngoài phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình còn cung cấp cho nhu cầu mua sắm của khách du lịch; Diện tích gieo trồng vụ Xuân trong quý I ước thực hiện 3.440,48ha, tăng  0,2% (+29,4 ha).
* Cây lâu năm: Trong quý I năm 2023, một số sản phẩm mang lại giá trị sản xuất trong quý như: Bưởi, quýt, cam; tuy nhiên sản lượng không cao do trái vụ thu hoạch. Đối với cây chè, năm nay thời tiết khô hơn, ít mưa nên chè thu hoạch vụ Xuân giảm so với cùng kỳ. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh, một số cây ăn quả có giá trị cao như nho, dâu tây cũng đang được quan tâm, đầu tư, đã cho thu hoạch; tuy nhiên về số lượng cơ sở cũng như quy mô còn nhỏ lẻ, giá trị sản xuất chưa đáng kể.
- Cây chuối diện tích hiện được 1.257,2 ha, tăng 1,62% (+20 ha), sản lượng thu hoạch 2.350,05 tấn, tăng 1,37% (+31,7 tấn) so cùng kỳ năm trước, Chuối trong quý I chủ yếu phục vụ nhu cầu ăn uống, bán vào dịp Tết cho giá trị cao hơn. Cây xoài diện tích hiện được 415,3 ha, tăng 0,31% (+1,3 ha). Cây dứa diện tích hiện được 270 ha, tăng 4,65% (+12 ha). Cây thanh long trồng nhiều ở huyện Hữu Lũng, giống thanh long ruột đỏ phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng cho năng suất cao, diện tích hiện được 111,4 ha, tăng 4,7%. Cây cam thực hiện 757,4 ha, tăng 3,7% (+27 ha), được trồng nhiều ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, giống cam chủ yếu là cam đường Canh, cam Vinh do cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên nên sinh trưởng, phát triển tốt. Cây bưởi trồng chủ yếu ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, diện tích hiện có 1.499,2 ha, tăng 0,81% (+12,1 ha), do giá mang lại trị kinh tế cao.
- Cây công nghiệp lâu năm: Diện tích chè hiện có 400,38 ha, tăng 0,07% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích trồng tập trung chè búp chủ yếu vùng thị trấn Nông trường Thái Bình của huyện Đình Lập, ngoài ra còn phân bố rải rác một số huyện như huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Lộc Bình. Sản lượng chè thu hoạch ước đạt 745,62 tấn, bằng 90,29% so với cùng kỳ năm trước, do thị trường tiêu thụ chậm, thiếu nhân công chăm sóc, thu hoạch; thời tiết hanh khô sản lượng chè xuân giảm so với cùng kỳ.
1.1.2. Chăn nuôi
Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh điều kiện chăn nuôi tương đối thuận lợi, ít đợt rét đậm, rét hại. Người dân tận dụng rơm khô, cỏ khô tích trữ từ đầu vụ Đông làm thức ăn cho trâu, bò. Tình hình dịch bệnh trên đàn vật nuôi được các cơ quan chức năng theo dõi, giám sát chặt chẽ; công tác tiêm phòng kiểm soát giết mổ và kiểm dịch vận chuyển, vệ sinh thú y được quan tâm thực hiện. 
Giá sản phẩm từ chăn nuôi giảm 3,29% so với quý trước, trong đó giá thịt lợn bình quân trong quý I/2023 giảm 5,05% do điều kiện dịch bệnh được kiểm soát tốt, giá cả về con giống và giá thức ăn chăn nuôi ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho người chăn nuôi khẩn trương tái đàn lợn, nguồn cung dồi dào. Sản phẩm gia cầm tăng 0,86% so với cùng kỳ, trong đó giá gà ta hơi tăng 1,02% do nhu cầu tiêu thụ gà Tết tăng. Giá trâu bò hiện nay giảm 8,71% so với cùng kỳ.

 
image
1.2. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung quý I ước đạt 3.208,35 ha, tăng 2,1% (+66,01 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Khai thác gỗ tròn các loại trong quý I ước 178,3 nghìn m3, tăng 7,7% (+12,7 nghìn m3) so cùng kỳ. Khai thác gỗ từ đầu năm tăng cao diện tích trồng rừng sản xuất ngày càng mở rộng do trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế, cây lâm nghiệp được trồng chủ yếu là keo, mỡ, bạch đàn; các cơ sở chế biến gỗ ép ngày càng tăng công suất, đáp ứng được đầu ra cho người dân tại địa phương.
Củi các loại: Ước khai thác 139,4 nghìn ste, giảm 0,06% (-88,15 ste) so cùng kỳ. Do nhu cầu sử dụng củi đun trong sinh hoạt giảm, củi chủ yếu là tận thu từ việc phát cành từ rừng sản xuất.
Trong tháng 3, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy rừng, thiệt hại khoảng 0,25 ha trên địa bàn xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc. Lũy kế 3 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 08 vụ cháy rừng, thiệt hại khoảng 7,75 ha rừng trồng.
1.3. Thủy sản
Sản phẩm thủy sản trên địa bàn tỉnh chủ yếu khai thác từ các ao, hồ đang nuôi thả; người dân tập trung chăm sóc đàn cá đã thả và nuôi vỗ đàn cá bố, mẹ theo đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo cá phát triển tốt, tỷ lệ thành thục cao, phục vụ tốt quy trình sinh sản nhân tạo đầu năm 2023. Tiếp tục thực hiện cung ứng cá giống đảm bảo chất lượng cho nông dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh, trong tháng cung ứng được 17.240 con cá giống các loại (mè, trôi, trắm, chép, chim, trê, vược…) cho người dân trên địa bàn tỉnh.
 Giá bán thủy sản đánh bắt từ sông, suối ổn định phục vụ nhu cầu tiêu thụ của nhân dân trên địa bàn, chưa có thương lái thu mua hay tiêu thụ ở số lượng lớn. Tổng sản lượng thủy sản trong tháng đạt 161 tấn. Lũy kế, quý I sản lượng thủy sản ước đạt 449,08 tấn. Sản lượng cá trong quý ước đạt 428,96 tấn, tăng 1,61% so với cùng kỳ; thủy sản khai thác nội địa đạt 74,57 tấn; thủy sản nuôi trồng đạt 374,51 tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng tăng là do nhu cầu tiêu dùng, chủ yếu là cá và số lượng ít tôm, ốc được đánh bắt ở sông, suối.
2. Sản xuất công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 3/2023

2.1.1. So với tháng trước
Tong quý I hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất với số lượng lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của người dân và đảm bảo các hợp đồng các đơn đặt hàng.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 3 tăng 6,97%; trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 9,87%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,85%, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 0,5%, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 1,23%.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng (sản phẩm than) ước đạt 57,2 nghìn tấn, tăng 19,63%; khai thác đá ước đạt 267,3 nghìn m3 giảm 0,29%.
Các sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phần lớn có chỉ số sản xuất tăng so với tháng trước, do doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất cá thể trở lại hoạt động sau thời gian nghỉ Tết Nguyên đán, hoàn thành các đơn hàng trong tháng. Trong ngành sản xuất đồ uống tăng 4,57%, tăng cao ở hoạt động nấu rượu ở các hộ sản xuất cá thể; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 37,84% (tăng chủ yếu ở sản phẩm Xi măng Portland đen và hạt đá mài); sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 20,65%, tăng chủ yếu ở sản phẩm muối công nghiệp tăng 100% do nhu cầu nhập khẩu từ phía đối tác Trung Quốc tăng, một số sản phẩm như bật lửa ga, bóng thể thao, móc khóa… đều có xu hướng tăng trong tháng 3. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số giảm, như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 0,91% do công ty cổ phần chè Thái Bình trong 02 tháng đầu năm doanh nghiệp tập trung tiêu thụ sản phẩm, sang tháng 3 mới tập trung cho sản xuất; ngành in, sao chép bản ghi các loại giảm 9,69% do nhu cầu thị trường giảm.
Ngành sản xuất và phân phối điện có chỉ số sản xuất giảm 0,5% so với tháng trước, trong đó, sản lượng điện sản xuất giảm 0,72% do thời gian hoạt động sản xuất của một số ngành giảm; điện thương phẩm tăng 1,0% so với tháng trước.
Ngành cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 1,23% so với tháng trước, với hoạt động khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,6%, hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 1,91% so với tháng trước.
2.1.2. So với cùng kỳ
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 3 so với cùng kỳ tăng 11,14%. Cụ thể, công nghiệp khai thác tăng 1,84%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 22,61%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 3,57%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 2,68% so với cùng kỳ.
Ngành công nghiệp khai khoáng tăng chủ yếu ở sản phẩm đá xây dựng tăng 5,84% do nhu cầu xây dựng nhà cửa của người dân có xu hướng tăng, bên cạnh đó các công trình, dự án, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục được triển khai đầu tư xây dựng mới dẫn đến nhu cầu tiêu thụ đá xây dựng tăng so với cùng kỳ.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với chỉ số tăng 22,61% so với cùng kỳ, trong đó: Sản xuất đồ uống tăng 25,5% trong đó tăng cao ở sản phẩm rượu có độ cồn từ 25 độ trở lên, một số doanh nghiệp lớn sản xuất trong ngành ký được đơn hàng tiêu thụ ổn định, các nhà hàng, các quán ăn đã mở cửa trở lại dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tăng; hoạt động chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ có chỉ số sản xuất tăng 55,28%, với lợi thế kinh tế đồi rừng phát triển, nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương, các cơ sở kinh doanh cá thể hoạt động chế biến ván bóc tăng cao, dự ước doanh thu trong tháng 3/2023 đạt khoảng 18,6 tỷ đồng; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 41,61%, tăng chủ yếu các sản phẩm gia công cơ khí như hoạt động hàn xì, sản xuất cửa hoa, cửa sắt trong dân cư; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 13,89%, riêng sản phẩm bật lửa ga tăng 33,76% do doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng.
Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ cụ thể: Sản xuất sản trang phục, phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (công ty TNHH MTV điện tử Dũng Nam và công ty TNHH Tuấn Anh trong tháng không thực hiện sản xuất sản phẩm); sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic, sản xuất máy bơm….
Riêng ngành điện, sự tăng giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 3 tăng 3,57%; điện sản xuất tăng 3,53%, điện thương phẩm tăng 3,38% so với cùng kỳ do hoạt động sản xuất của các doanh nghiêp, cơ sở sản xuất kinh doanh đã ổn định dần đi vào hoạt động bình thường nên nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất tăng.
Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải ước tăng 2,68%. Cụ thể: Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,6%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 2,48%, việc nâng cấp sửa chữa đường ống, tăng công suất hoạt động của nhà máy xử lý nước thải; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 4,62%.
2.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp Quý I năm 2023
Chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh dự ước trong quý I năm 2023 tăng 4,98% so với cùng kỳ. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,94%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,92%, tiếp tục giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp; sản xuất và phân phối điện tăng 3,53%; cung cấp nước, xử lý rác thải tăng 5,25%.
Một số sản phẩm có mức tăng trưởng khá cao góp phần thúc đẩy chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng như: Sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất đồ uống phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong Tết Nguyên đán, các dịp các lễ, hội Xuân trên địa bàn tỉnh; dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da do hoạt động gia công sản phẩm cho một số công ty trong nước, hoạt động xuất nhập khẩu sôi động trở lại, nhu cầu đặt hàng gia công tăng cao; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn như hoạt động hàn xì, sản xuất cửa hoa, cửa sắt, hàn xì lợp mái tôn, hoạt động xây dựng trong dân cư tăng; các sản phẩm từ gỗ như gỗ dán, gỗ lạng, ván ép công nghiệp là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh do nguồn nguyên liệu nhiều, có sẵn trên địa bàn, từ khâu khai thác cho đến chế biến gỗ được áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dẫn đến các sản phẩm chế biến gỗ (giường, tủ, bàn ghế) ngày càng đa dạng hơn, mẫu mã và chất lượng ngày càng phù hợp, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu xuất khẩu.
Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Xi măng Portland đen ước đạt 295,5 nghìn tấn, tăng 12,41% (khoảng 32,7 nghìn tấn) so với cùng kỳ, đáp ứng nhu cầu về vật liệu xây dựng cho hoạt động xây dựng không chỉ riêng trên địa bàn tỉnh mà còn cung cấp cho một số tỉnh lân cận, riêng sản phẩm clanhke xi măng giảm 7,79% (khoảng 20 nghìn tấn) so với cùng kỳ do lợi nhuận mang lại từ sản xuất không cao như cùng kỳ năm trước, doanh nghiệp cắt giảm sản lượng, chủ yếu sản xuất trực tiếp xuất kho chế biến tiếp sản phẩm xi măng; điện sản xuất chiếm tỷ trọng lớn là của Công ty cổ phần Nhiệt điện Na Dương trong quý I năm 2023 sản lượng điện đạt 240,59 triệu Kwh, tăng 4,51% so với cùng kỳ; sản lượng khai thác than của Công ty Than Na Dương quý I/2023 đạt 156,01 nghìn tấn, tăng 3,23 % so với cùng kỳ.
Bên cạnh những ngành sản xuất có chỉ số tăng, còn có một số ngành có chỉ số giảm như: Ngành sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất (Ngành 20) giảm chủ yếu ở sản phẩm Colophan do sự cố cháy xưởng của Công ty TNHH Long Tân chưa được khắc phục, giá thu mua nhựa thông trong dân cư hiện nay giảm do ảnh hưởng từ sự cố này. Ngành sản xuất kim loại (Ngành 24) Công ty Kim loại màu Bắc Bộ thiếu nguyên liệu sản xuất. Một số sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, khó tiêu thụ, bên cạnh đó công nghệ sản xuất chưa được đầu tư đổi mới kịp thời, năng suất đạt thấp nên trong thời gian gần đây chỉ số sản xuất của những ngành này ngày càng giảm như: sản phẩm ống nhưạ thuộc ngành Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm (Ngành 22); sản xuất máy bơm nước thuộc ngành sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu (Ngành 28).

2.4. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số tiêu thụ tháng 3/2023 tăng 28,32% so với tháng trước và giảm 5,41% so với cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ trong quý I năm 2023 giảm sâu ở một số ngành như: Ngành sản xuất đồ uống giảm 32,37% so với cùng kỳ (sản phẩm rượu trắng có độ cồn từ 25 độ trở lên giảm 51,25%), ngành chế biến gỗ giảm 25,11% do tình hình lạm phát vẫn đang gia tăng tại các thị trường xuất khẩu chính của nhóm hàng là Mỹ và các nước EU, nhu cầu đối với mặt hàng không thiết yếu như sản phẩm gỗ sẽ bị giảm dẫn đến việc ký kết và thực hiện đơn hàng bị tác động trực tiếp; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 35,39%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 9,15%; sản xuất kim loại giảm 43,36%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 45,06% do sức cạnh tranh sản phẩm của địa phương chưa cao, đơn hàng giảm, một số ngành thiếu nguyên liệu sản xuất. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng  cao như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 53,58%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất (chủ yếu là colophan và axit nhựa cây) tăng 13,19%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 254,67%.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tháng 3/2023 tăng 7,3% so với tháng trước và tăng 37,5% so với cùng kỳ. Tăng chủ yếu như sản xuất da 7,69%, sản xuất gỗ tăng 41,13%, các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 29,47% so với cùng kỳ do mẫu mã sản phẩm chưa mang tính chất cạnh tranh cao, phụ thuộc chủ yếu nhu cầu nguời tiêu dùng dẫn đến hàng tồn kho cao. Bên cạnh đó có rất nhiều nhóm sản phẩm có chỉ số hàng tồn kho giảm so với cùng kỳ như ngành xuất chế biến thực phẩm, đồ uống, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn do các doanh nghiệp đã chủ động tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống. Sản phẩm xe điện có mẫu mã và giá cả hợp lý, bên cạnh đó nhu cầu thị trường tăng, tồn kho giảm. Ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học có chỉ số tồn kho giảm sâu so với cùng kỳ, nguyên nhân trong tháng doanh nghiệp  ngừng sản xuất sản phẩm, tập trung tiêu thụ sản phẩm tồn kho.
2.5. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 3/2023 tăng 0,44% so với tháng trước và giảm 5,98% so với tháng cùng kỳ. Bình quân, quý I năm 2023, chỉ số sử dụng lao động giảm 6,72% so với cùng kỳ năm trước, do một số lao động nghỉ việc và một bộ phận lao động doanh nghiệp đã cho thôi việc, doanh nghiệp tổ chức sắp xếp lại sản xuất kinh doanh nên cắt giảm nhân sự, một số ngành do áp dụng máy móc thay thế con người hoặc do cắt giảm sản lượng nên lao động giảm; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,14%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 5,44% do thực hiện quá trình cổ phần hóa, Công ty cấp thoát nước Lạng Sơn cắt giảm lao động.
2.6. Xu hướng sản xuất kinh doanh quý I năm 2023
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên tổng số 33 doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo hỏi về xu hướng kinh doanh. Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2023 so với quý trước: 35,48% doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 29,03% doanh nghiệp giữ ổn định; 35,48% số doanh nghiệp cho rằng sản xuất kinh doanh khó khăn hơn. Trong đó, khu vực FDI 25% doanh nghiệp đánh giá tốt lên, 75% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất giữ ổn định; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 37,04% đánh giá tốt lên và 22,22 % giữ ổn định, 40,74% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn quý trước.
3. Đầu tư, xây dựng
Trong quý, các chủ đầu tư phải hoàn thành các thủ tục hành chính để được cấp vốn và chuẩn bị hồ sơ thầu các công trình mới của năm 2023, vì vậy công trình khởi công mới chưa nhiều, chủ yếu là thi công các công trình dở dang từ năm trước chuyển sang.
Để hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện dự án, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành, tăng cường hỗ trợ các nhà đầu tư giải quyết khó khăn, vướng mắc, nhất là trong giải quyết thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ chế, chính sách… Hàng loạt dự án lớn, có sức lan toả cao như:  khu trung chuyển hàng hoá Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn; quần thể Khu du lịch sinh thái cáp treo Mẫu Sơn; khu đô thị Bến Bắc…đã và đang được triển khai.
Tình hình đăng ký doanh nghiệp: Từ đầu năm đến hết tháng 3/2023, có 65 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 12,16% so với cùng kỳ. Tổng số vốn đăng ký kinh doanh là 304,2 tỷ đồng, giảm 45,06% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp gửi thông báo tạm ngừng hoạt động 135 doanh nghiệp tăng 13,44%, doanh nghiệp thông báo giải thể 18 doanh nghiệp giảm 57,14% so với cùng kỳ.
3.1. Tình hình vốn đầu tư thực hiện quý I năm 2023
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh quý I năm 2023 ước đạt 4.247 tỷ đồng, tăng 15,07% so cùng kỳ, trong đó: Vốn Nhà nước trên địa bàn quý I năm 2023 ước thực hiện 919,1 tỷ đồng, tăng 24,50% so với cùng. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn của dân cư và tư nhân quý I năm 2023 ước thực hiện 3.317,8 tỷ đồng, tăng 13,10% so với cùng kỳ, trong đó: Vốn của tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước ước thực hiện 1.612,1 tỷ đồng, tăng 19,19% cùng kỳ; vốn đầu tư của dân cư ước đạt 1.635,7 tỷ đồng, tăng 3,45% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài quý I năm 2023 ước đạt 10,03 tỷ đồng.

3.2. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước
Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 3/2023 thực hiện được 214,88 tỷ đồng, đạt  4,68% so với kế hoạch năm 2023, tăng 37,81% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh  137,82  tỷ đồng, tăng 41,60%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 77,06 tỷ đồng, tăng 31,51% so với cùng kỳ.
 Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh quý I năm 2023 ước thực hiện 587,20  tỷ đồng, đạt 12,80% kế hoạch năm, tăng 43,39% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 365,38 tỷ đồng, tăng 50,25%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 221,81 tỷ đồng, tăng 33,36% so với cùng kỳ.
* Tiến độ thực hiện một số dự án trên địa bàn tỉnh
- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 3/2023 ước thực hiện được 651,5 tỷ đồng, đạt 65,93% kế hoạch.
- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần): Công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 3/2023 ước thực hiện được 530,7 tỷ đồng, đạt 38,52% kế hoạch.
 - Dự án Cải tạo nâng cấp tuyến Cao Lộc - Ba Sơn (ĐH.28), huyện Cao Lộc công trình có tổng mức đầu tư 299,7 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 3/2023 ước thực hiện được 215 tỷ đồng, đạt 71,73% so với kế hoạch. Đường giao thông Khu Công nghiệp Đồng Bành (giai đoạn 1)
- Dự án Đường giao thông Khu Công nghiệp Đồng Bành (giai đoạn 1): Công trình có tổng mức đầu tư 113,9 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 3/2023 ước thực hiện được 106 tỷ đồng, đạt 93,12% kế hoạch.
4. Tài chính, ngân hàng 
4.1. Tài chính[1]

- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Cục Thuế, Cục Hải quan tập trung chỉ đạo quyết liệt, triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp thu năm 2023. Triển khai thực hiện tốt các Luật thuế, tập trung rà soát các nguồn thu trên địa bàn, lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh công tác chống thất thu, chống chuyển giá, trốn thuế. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giá của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, góp phần chống thất thu, gian lận thuế. Các sở, ngành và Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố rà soát, hoàn thiệu thủ tục, đẩy nhanh tiến độ tổ chức đấu giá các khu đất có tài sản trên đất theo kế hoạch.
Tổ chức kiểm tra phân bổ dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 và công tác quyết toán năm 2022 tại UBND các huyện, thành phố để kịp thời nắm bắt tình hình, triển khai những nhiệm vụ trong thời gian tới và xử lý tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác lập, phân bổ, quyết toán ngân sách.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện quý I năm 2023 là 1.531 tỷ đồng, đạt 18,9% so với dự toán Trung ương giao, đạt 18,7% so với dự toán tỉnh giao, bằng 77% so với cùng kỳ. Trong đó: Thu nội địa: 580 tỷ đồng, đạt 27,7% dự toán Trung ương giao, đạt 26,4% so với dự toán tỉnh giao, bằng 98,6% so với cùng kỳ. Sự thiếu hụt đơn hàng, nguồn cung nguyên vật liệu tăng cao đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, đây cũng là những yếu tố làm cho khoản thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu trong quý I năm 2023 đạt khá thấp, chỉ đạt 15,8% so với dự toán giao, bằng 67,9% so với cùng kỳ.
- Về chi ngân sách địa phương
Chi ngân sách nhà nước được điều hành chủ động, linh hoạt, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm; chủ động đảm bảo nguồn lực thực hiện các chính sách do tỉnh ban hành. Chủ động theo dõi sát diễn biến cung cầu và giá cả thị trường trước, trong và sau Tết Nguyên đán, đáp ứng trực tiếp nhu cầu tiêu dùng Tết của nhân dân để kịp thời có biện pháp điều hành, bình ổn thị trường, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng hóa, chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá. Tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản công. Ngoài các khoản chi thường xuyên theo định kỳ, trong quý còn phát sinh nhiều khoản chi về chăm lo, hỗ trợ các đối tượng chính sách nhân dịp Tết Nguyên Đán Quý Mão năm 2023.
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện quý I năm 2023 là 2.142 tỷ đồng, đạt 15,8% dự toán giao đầu năm, bằng 118% so với cùng kỳ, Trong đó:  Chi trong cân đối ngân sách địa phương là 1.827 tỷ đồng, đạt 18,2% dự toán giao đầu năm và bằng 107,4% so cùng kỳ. Chi các chương trình mục tiêu và một số nhiệm vụ khác là 315 tỷ đồng đạt 8,9% dự toán, bằng 277% so với cùng kỳ.
4.2. Ngân hàng[2]  
Các tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai thực hiện các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước về công tác huy động vốn, cho vay phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội địa phương, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Ước thực hiện đến 31/3/2023: Tổng huy động vốn ước đạt 39.065 tỷ đồng, tăng 5,27% so với 31/12/2022. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 38.426 tỷ đồng, giảm 2,43% so với 31/12/2022.
5. Thương mại và dịch vụ
Quý I năm 2023, hoạt động thương mại diễn ra sôi động, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán, giá cả các mặt hàng cơ bản ổn định, hàng hóa phong phú, đa dạng, bảo đảm phục vụ nhu cầu của người dân, không có hiện tượng thiếu hàng cũng như tăng giá đột biến.
Sau thời gian tạm dừng do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong dịp đầu năm 2023, tỉnh Lạng Sơn tổ chức Tuần văn hóa, thể thao và du lịch Xuân Quý Mão 2023 và phát động tuần lễ trang phục các dân tộc Lạng Sơn với chủ đề “Sắc Xuân xứ Lạng”. Các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn bắt đầu được tổ chức trở lại với quy mô lớn, thu hút đông đảo nhân dân và khách du lịch[3], đặc biệt, lễ hội đền Kỳ Cùng tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng Giêng Quý Mão năm nay được tổ chức với quy mô lớn hơn các năm trước... Những sự kiện, lễ hội này đã tạo điều kiện to lớn cho việc phát triển ngành dịch vụ du lịch, lưu trú, ăn uống và ngành bán lẻ trên địa bàn; các nhà hàng, khách sạn đều hoạt động hết công suất trong thời gian trước và sau Tết.
Tại các chợ truyền thống, trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, các hệ thống phân phối hàng hoá đảm bảo nguồn hàng cung ứng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và trên địa bàn tỉnh không có hiện tượng khan hiếm hàng hoá hoặc tăng giá đột biến, nhiều chương trình khuyến mãi giảm giá các sản phẩm để kích cầu tiêu dùng. Hoạt động du lịch diễn ra ổn định, thời tiết thuận lợi, các tour du lịch trong nước liên tục có những ưu đãi, khuyến mãi với các gói du lịch trong tuần để kích cầu khách du lịch.
                                                           Biểu 2: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
image 1
 
Tình hình xuất nhập khẩu diễn ra tương đối thuận lợi do từ ngày 08/01/2023 phía Trung Quốc dần nới lỏng các biện pháp kiểm soát dịch bệnh Covid-19, cơ bản bình thường hoá các hoạt động xuất nhập khẩu tại 05[4] cửa khẩu trên địa bàn tỉnh. Hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa ổn định, thông suốt, an toàn. Dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục được cải thiện, nâng cao về chất lượng. Các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh, các chương trình, hoạt động du lịch, lễ hội sau thời gian dài hạn chế, tạm hoãn để thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 đã được triển khai trở lại, số lượng người tham gia các lễ hội truyền thống của tỉnh tăng cao.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn quý I/2023 ước đạt 710 triệu USD, đạt 18,7% kế hoạch, tăng 44,9% so với cùng kỳ. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 310 triệu USD, đạt 23,8% kế hoạch, tăng 93,8% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 400 triệu USD, đạt 16% kế hoạch, tăng 21,2% so với cùng kỳ. Hàng địa phương xuất khẩu quý I/2023 ước đạt 30 triệu USD, đạt 19,5% kế hoạch, tăng 20% so với cùng kỳ.[5]
5.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 3/2023 ước tính đạt 2.240,9 tỷ đồng, tăng 0,02% so với tháng trước và tăng 20,79% so với cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa quý I/2023 ước đạt 6.491 tỷ đồng, tăng 17,31% so với cùng kỳ năm trước. Có 8/12 nhóm ngành hàng tăng trên 10% còn lại các nhóm ngành hàng khác tăng ở mức từ 1-7%. Chủ yếu tăng ở các nhóm ngành hàng hóa: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 20,5%; nhóm hàng may mặc tăng 12,81%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 14,81%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,24%; nhóm phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 12,33%; nhóm nhiên liệu khác tăng 11,24%; có bốn nhóm ngành tốc độ tăng thấp hơn là nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 6,3%; nhóm ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 6,5%; nhóm xăng, dầu các loại tăng 5,35% và nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 2,89% so với cùng kỳ.
5.2. Dịch vụ
5.2.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 3/2023 dự ước doanh thu đạt 221,8 tỷ đồng, giảm 6,64% so với tháng trước và tăng 38,48% so với cùng kỳ.
Doanh thu dịch vụ lữ hành tháng 3/2023 ước hơn 1,1 tỷ đồng, giảm 4,3% so với tháng trước và so với cùng kỳ tăng 26,02%.
Ước tính doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống quý I năm 2023 đạt 678,7 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước tăng 30,96% trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú tăng 22,54%; dịch vụ ăn uống tăng 31,48%. Doanh thu lữ hành ước 3,5 tỷ đồng tăng 26,81% so với cùng kỳ.
So với quý I năm trước hoạt động dịch vụ lưu trú ăn uống tăng mạnh, do sau Tết Nguyên đán các lễ hội truyền thống được diễn ra với phạm vi lớn thu hút khách địa phương và khách du lịch đến thăm quan du lịch và mua sắm, các nhà hàng, quán ăn phục vụ hết công suất. Tình hình dịch bệnh của các nước trên thế giới hiện nay đã được kiểm soát tốt, do đó các tour du lịch trong và ngoài nước hoạt động trở lại mạnh mẽ so với cùng kỳ, dịch vụ lữ hành tăng cao so với năm trước.
5.1.2. Doanh thu dịch vụ khác
Doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng 3 năm 2023 đạt 47,5 tỷ đồng, tăng 1,41% so với tháng trước và tăng 12,1% so cùng kỳ năm trước. Dự ước doanh thu dịch vụ trong quý I năm 2023 đạt 140,2 tỷ đồng, tăng 10,49% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng lượng khách du lịch ước đạt 1.454,2 nghìn lượt khách, đạt 38,7% kế hoạch, tăng 92,4% so với cùng kỳ. Trong đó khách quốc tế 36.639 lượt, đạt 18,3% kế hoạch, khách nội địa 1.417 nghìn lượt, đạt 39,8% kế hoạch; doanh thu 1.138,7 tỷ đồng, đạt 40% kế hoạch, tăng 311%.
5.3. Vận tải
Doanh thu ngành vận tải hành khách năm nay sẽ tăng do không còn bị ảnh hưởng của dịch bệnh, người dân đi lễ hội trong quý I (tháng 2 - tháng 3) và đi du lịch. Tuy nhiên, doanh thu ngành vận tải hàng hoá và dịch vụ kho bãi sẽ không tăng cao như năm trước vì phía Trung Quốc dần nới lỏng các biện pháp kiểm soát dịch bệnh Covid-19, cơ bản bình thường hoá các hoạt động xuất nhập khẩu nên số lượng xe lưu kho, lưu bãi sẽ không lớn như năm 2022.
Dự ước doanh thu quý I/2023 đạt 533,8 tỷ đồng tăng 5,04% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu vận tải  hành khách đạt 63,46 tỷ đồng, tăng 17,12%, về khối lượng vận chuyển tăng 18,94% và tăng 17,31% về khối lượng luân chuyển. Doanh thu về vận tải hàng hóa đạt 173,4 tỷ đồng,  giảm 1,2% về doanh thu; giảm 0,14% về khối lượng vận chuyển và giảm 0,73% về khối lượng luân chuyển.
So với cùng kỳ năm trước, doanh thu của thành phần kinh tế cá thể tăng 12,38%, doanh thu tăng chủ yếu do tăng doanh thu về vận chuyển hành khách, trong đó: Vận chuyển hành khách bằng đường bộ tăng 16,77%, xe vận chuyển hành khách của thành phần kinh tế cá thể trong dịp Tết tăng so với cùng kỳ do nhu cầu đi lại của người dân.
6. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng lương thực, đồ uống và thuốc lá, đồ dùng trong nhà tăng do nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của người dân tăng; giá vật liệu xây dựng tăng do giá thép tăng cao, nguyên nhân giá phôi thép, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, chi phí vận chuyển tăng dẫn đến giá thành sản xuất của các công ty tăng theo; chỉ số giá đô la Mỹ tăng theo thị trường thế giới. Chỉ số giá giao thông giảm theo giá nhiên liệu thế giới; chỉ số giá thực phẩm giảm ở các mặt hàng như thịt lợn, thịt bò, thịt gà so với tháng trước do nhu cầu mua sắm giảm (tháng 2 tiếp tục diễn ra các lễ hội truyền thống) là nguyên nhân làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 3/2023 giảm 0,5% so với tháng trước, tăng 2,19% so với cùng kỳ năm trước, tăng 5,42% so với năm gốc (năm 2019). Tính chung quý I/2023, CPI tăng 3,37% so với cùng kỳ năm trước, trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá (Giao thông 3,40%; Bưu chính viễn thông giảm 0,09%).
6.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 3/2023 tăng 0,85% so với tháng trước, cụ thể:
* Nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng so với tháng trước, gồm:
- Nhóm lương thực tháng 3/2023 tăng 0,77% so với tháng trước, trong đó chỉ số giá nhóm gạo tăng 0,35% (khu vực thành thị tăng 0,08%; khu vực nông thôn tăng 0,61%). Giá gạo tăng chủ yếu là loại gạo tẻ thường. Giá các mặt hàng lương thực chế biến khác tăng 1,47%, do giá nhập một số mặt hàng cao như giá bánh mì tăng 0,25%; miến tăng 0,76% so với tháng trước; mì sợi, mì, phở, cháo ăn liền tăng 2,17%; ngũ cốc ăn liền tăng 1,10%; bột ngô tăng 0,82%; ngũ cốc khác tăng 0,30%.
- Nhóm ăn uống ngoài gia đình tháng 3/2023 tăng 0,01% so với tháng trước, trong đó giá ăn uống ngoài gia đình ổn định; đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,28% do nhu cầu tiêu dùng tăng.
- Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng: Chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 3/2023 tăng 0,32% so với tháng trước.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tháng 3/2023 tăng 0,63% so với tháng trước. Trong đó, giá tủ lạnh tăng 2,71%, máy hút bụi tăng 0,36%; bình nước nóng nhà tắm tăng 2,16%; quạt điện tăng 0,38%; nồi cơm điện tăng  0,45%; sửa máy giặt tăng 1,11%.
- Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tháng 3/2023 tăng 0,13% so với tháng trước; sách báo tạp trí các loại tăng 0,21%; thiệt bị dụng cụ thể thao tăng 0,12%; giải trí tăng 1,41%; hoa cây cảnh tăng 3,36%.
- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tháng 3/2023 tăng 0,56% so với tháng trước, tập trung ở giá các nhóm túi sách, va ly tăng 0,19%; cắt tóc, gội đầu tăng 2,06%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 2,06%, các nhóm mặt hàng khác ổn định.
* Nhóm hàng hóa chủ yếu có chỉ số giá giảm so với tháng trước
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 3/2023 giảm 1,62% so với tháng trước, trong đó lương thực tăng 0,77%; thực phẩm giảm 2,4%; ăn uống ngoài gia đình tăng nhẹ 0,01%.
- Nhóm thực phẩm tháng 3/2023 giảm 2,4% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở một số mặt như: Giá thịt lợn giảm 5,17% so với tháng trước, trong đó khu vực thành thị giảm 4,01%; khu vực nông thôn giảm 5,69%. Giá thịt lợn giảm từ 8.000-12.000 đồng/kg; giá thịt gà giảm 2,04%, trong đó khu vực thành thị giảm 1,17%, nông thôn giảm 2,73%. Giá thịt chế biến giảm 1,30%. Bên cạnh đó, tháng 3/2023 một số loại rau củ vào vụ thu hoạch nên giá cả giảm, giá các loại rau tươi, khô và chế biến giảm 4,99%.
- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tháng 3/2023 giảm 0,06% so với tháng trước do nhu cầu mua sắm quần áo giảm. Trong đó, quần áo may sẵn giảm 0,12% so với tháng trước; may mặc khác giảm 0,51%; mũ nón tăng 0,12%; giày dép tăng 0,21%; dịch vụ may mặc giảm 0,38%.
- Nhóm giao thông tháng 3/2023 giảm 0,16% so với tháng trước. Nguyên nhân chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước tăng, giảm liên tục theo giá nhiên liệu thế giới và mức thuế bảo vệ môi trường.
6.2. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 và bình quân quý I năm 2023 so với cùng kỳ.
CPI chung toàn tỉnh tháng 3/2023 tăng tăng 2,19% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Nhóm giáo dục tháng 3/2023 tăng cao nhất với 14,75% so với cùng kỳ năm trước do năm học 2022-2023 tăng mức học phí; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,09%, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 3,28%; giá lương thực tăng 5,87% và thực phẩm tăng 4,03%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,26% chủ yếu do giá nguyên liệu sản xuất đồ uống, chi phí vận chuyển tăng; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,22% do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 10,88%; dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 7,58%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,78%, tăng chủ yếu là điều hoà nhiệt độ (+4,61%), tủ lạnh (+2,12%), máy giặt (+4,32%)...; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 8,8%, giải trí tăng 12,17%, du lịch trong nước tăng 49,07% do dịch Covid-19 được kiểm soát, khách sạn, nhà hàng tăng khi nhu cầu du lịch trong nước tăng; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tháng tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá và đồ dùng cá nhân tăng 3,93%; dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 6,12%...; nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,18% so với cùng kỳ năm trước do giá điện thoại thế hệ cũ giảm. nhóm giao thông giảm 6,66% chủ yếu do biến động của giá xăng dầu.
 
CPI chung bình quân quý I năm 2023 giảm 3,37% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng: Nhóm giáo dục tăng 14,75% so với cùng kỳ năm trước do, năm học 2022-2023 tăng mức học phí; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,07%: Dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 3,51%; giá lương thực tăng 4,84% và thực phẩm tăng 6,95%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,13%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,41%, may mặc (+1,88%), mũ nón (+1,97%), giầy dép (+8,80%); nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,47% do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 12,40%; dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 8,01%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 8,99%: Giải trí tăng 14,12%; du lịch trong nước tăng 49,07%  dịch vụ khách sạn, nhà hàng hoạt động tốt hơn khi nhu cầu du lịch trong nước tăng; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tháng tăng 2,74% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá và đồ dùng cá nhân tăng 2,86%; dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 7,09%... Riêng nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,09% và nhóm giao thông giảm 34% so với cùng kỳ năm trước.
6.3. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ.
- Chỉ số giá vàng (- 0,71%): Trong tháng 3/2023 giá vàng thế giới biến động tăng - giảm thất thường, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá tăng - giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 0,71%, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,72%, so với năm gốc năm 2019 tăng 42,49%.
- Chỉ số giá đô la Mỹ (+0,69%): So với tháng trước tăng 0,69%, so với cùng kỳ năm trước tăng 8,57%, so với năm gốc năm 2019 tăng 7,26%.
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Đời sống dân cư

Trong những tháng đầu năm 2023, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cơ bản ổn định không có biến động lớn, giá cả một số mặt hàng được bình ổn, cung ứng đầy đủ nguồn hàng chính sách và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Trong dịp Tết Nguyên đán, lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã tổ chức thăm, chúc Tết các tập thể, đơn vị, gia đình chính sách, người có công với cách mạng. Các cấp, các ngành của tỉnh, các tổ chức, cá nhân hảo tâm đã tổ chức nhiều đoàn thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo đảm bảo công tác an sinh xã hội trên địa bàn.
Thực hiện cứu đói đối với các hộ gia đình trên địa bàn: cho 8.662 nhân khẩu với 180.030 kg gạo, trị giá 2.883,147 triệu đồng. Thực hiện chuyển quà của UBND tỉnh đến các gia đình hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: với 30.598 suất quà trị giá 17.428 triệu đồng.
Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 11.218 người có công và thân nhân với kinh phí 21.165 triệu đồng; tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến là 238 hồ sơ. Thực hiện chuyển quà nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, quà tặng của Chủ tịch nước 7.193 đối tượng chính sách là người có công, thân nhân người có công với cách mạng, kinh phí: 6.501,9 triệu đồng; chuyển quà của tỉnh đến 5 đối tượng thương bệnh binh nặng người Lạng Sơn đang điều trị tại các Trung tâm, kinh phí 10 triệu đồng. Lãnh đạo tỉnh trực tiếp thăm, tặng quà 41 gia đình chính sách người có công, kinh phí 102,5 triệu đồng; thăm, chúc tết 48 đơn vị lực lượng vũ trang, một số cơ quan, đơn vị, kinh phí 240 triệu đồng. UBND các huyện, thành phố và các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trên địa bàn thăm, tặng 2.218 suất quà, kinh phí 1.290,3 triệu đồng cho các gia đình chính sách.
7.2. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[6]
Duy trì hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm tại Văn phòng Trung tâm và các Văn phòng Đại diện ở các huyện; Duy trì các hoạt động tư vấn học nghề cho người lao động, hướng dẫn người lao động hoàn thiện hồ sơ để hưởng trợ cấp thất nghiệp và phối hợp cùng BHXH tỉnh xử lý các trường hợp vướng mắc về bảo hiểm thất nghiệp; Phối hợp với các công ty tuyển dụng lao động thực hiện công tác tuyên truyền và tuyển dụng lao động góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh.
Ước giải quyết việc làm mới cho khoảng 10.000 lao động trên địa bàn tỉnh, đạt 58,8% kế hoạch, trong đó: Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm của tỉnh giải ngân cho vay 485 dự án với doanh số cho vay đạt 24,588 tỷ đồng, tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho khoảng 650 lao động; tạo việc làm mới từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, thương mại, du lịch, phát triển doanh nghiệp... của tỉnh cho khoảng 2.350 lao động; khoảng 7.000 lao động đi làm việc tại các doanh nghiệp, các khu công nghiệp ngoài tỉnh.
Duy trì tiếp nhận hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp và thực hiện các quy trình có liên quan đến giải quyết chính sách bảo hiểm thất nghiệp, kết quả: Số người nộp hồ sơ hưởng BHTN: 1.134 người tăng 9,04% so với cùng kỳ; số người có quyết định hưởng trợ cấp TN: 1.031 người tăng 11,22% so với cùng kỳ; số kinh phí chi trả trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề: 13.822.865.000 đồng.
7.3. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[7]
7.3.1. Công tác y tế dự phòng
Công tác phòng chống dich Covid-19 tính đến ngày  03/3/2023
Trong tháng 3, các cấp, các ngành tỉnh Lạng Sơn iếp  tục  tăng  cường  công  tác  phòng,  chống  dịch  COVID-19;  phối hợp chỉ  đạo đẩy mạnh triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho các nhóm đối tượng; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 trên địa bàn, không để  tình trạng vắc xin không được sử  dụng kịp thời, gây lãng phí.
Đánh giá cấp độ  dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị  quyết số  128/NQ-CP ngày 11/10/2021  của  Chính  phủ  và  Quyết  định  số  218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ  Y tế  (đánh giá ngày 03/10/2022):  Quy mô xã: 200/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh”.
Tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận: 2.084.836 liều (liều lọ).
7.3.2. Công tác khám chữa bệnh
Các hoạt động, chương trình y tế tiếp tục triển khai ngay từ đầu năm, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Các đơn vị khám, chữa bệnh tổ chức trực 04 cấp, đảm bảo trực 24/24 giờ; đảm  bảo  cơ  số  thuốc,  dịch  truyền,  vật  tư,  hoá  chất,  hậu  cần,  bố  trí  đủ  cơ  số giường bệnh, phương tiện cấp cứu và cấp cứu ngoại viện để  sẵn sàng đáp  ứng kịp thời các tình huống có thể xảy ra.
Ước thực hiện  quí I: Khám được  299.499  lượt đạt  24,86% KH năm, tăng khoảng 4% so với cùng kỳ;  điều trị  nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế  xã cho  32.304  lượt  đạt  21,07%  KH  năm,  tương  đương  so  với  cùng  kỳ;  điều  trị ngoại trú cho 34.047 đạt 56,29% KH năm, tương đương so với cùng kỳ.
Khám chữa bệnh tại các PKĐK ngoài công lập: Cộng dồn 2 tháng:  Khám bệnh  37.864 lượt, trong đó khám bảo hiểm y tế  22.547 lượt; chuyển viện 999 lượt;  khám  sức  khỏe  2.694   lượt  (trong  đó,  khám  sức  khỏe  theo  Thông  tư 14/2013/TT-BYT: 891 lượt, khám sức khỏe lái xe 1.803 lượt).
Tổ  chức hiến máu tình nguyện  ngành  Y  tế  được 337/300  (đạt  110%)  đơn vị máu (vượt chỉ tiêu đè ra).
7.4. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[8]
Các hoạt động văn hóa mừng Đảng - mừng Xuân Quý Mão được tổ chức với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thiết thực gắn với hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02-2023). Khai mạc Lễ hội Hoa Đào Xuân Quý Mão năm 2023 và các nội dung hoạt động trong khuôn khổ Lễ hội Hoa đào và Tuần lễ Văn hóa, thể thao, du lịch tỉnh Lạng Sơn Xứ Lạng năm 2023 như: Giao lưu Hát Sli, lượn, Múa sư tử; Giao lưu Khiêu vũ quốc tế mở rộng.... Tham gia các chương tình biểu diễn nghệ thuật phục vụ: 04 chương trình; Tính đến ngày 03/3/2023 đã thực hiện được 17/110 chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp phục vụ các nhiệm vụ chính trị. Các lễ hội đầu Xuân diễn ra trong không khí vui tươi, lành mạnh, phù hợp với văn hóa truyền thống, phong tục tập quán, không xảy ra các hoạt động mê tín, dị đoan.
Hoạt động Thư viện: Trao đổi các ấn phẩm báo xuân với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tăng cường công tác tuyên truyền đến các trường học, các cơ quan nâng cao nhận thức về về thư viện, ý nghĩa của việc đọc sách…Thực hiện bàn giao sách do các nhà xuất bản biếu tặng về cơ sở. Phục vụ bạn đọc tại chỗ 2.850 lượt độc giả, luân chuyển: 8.550 lượt sách, phục vụ phòng đa phương tiện đạt: 80 lượt. Điểm luân chuyển: Lượt độc giả: 25.320 lượt; Lượt sách, báo luân chuyển: 77.200 lượt; Phục vụ lưu động bạn đọc Lễ hội hoa Đào huyện Bắc Sơn – Xuân Quý Mão năm 2023 (tại xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn): 01 chuyến lưu động; Lượt độc giả: 392 lượt; Lượt sách luân chuyển : 686 lượt. Tiếp nhận và xử lý nghiệp vụ sách từ nguồn biếu tặng: 48 tên sách; 150 bản sách trị giá: 19.013.000đ; - Xử lý nghiệp vụ sách từ nguồn: sách Chương trình mục tiêu Quốc gia và bàn giao cho cơ sở. Trang thuvienlangson.vn hoạt động tốt. Tình hình mạng LAN hoạt động bình thường đáp ứng nhu cầu tra cứu của độc giả, tổng số lượt độc giả truy cập: 1.403.496 lượt. Trong quý I: 26.813 lượt.
Hoạt động Bảo tàng Thực hiện đón tiếp, phục vụ khách tham quan nghiên cứu, học tập tại Bảo tàng đạt: 14.100/15.000 lượt khách.
Trong quý I năm 2023 các đội chiếu bóng lưu động thực hiện được 283/1670 buổi chiếu, đạt 17% kế hoạch năm 2023. Rạp Đông Kinh đã thực hiện được 39 buổi chiếu, 10 bộ phim, phục vụ 229 lượt người xem.
Phối hợp với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Lạng Sơn (Vietcombank Lạng Sơn) ban hành Điều lệ, tổ chức giải chạy Việt dã Vietcombank Run “Vạn trái tim - Một niềm tin”; tổ chức đua bè mảng, biểu diễn võ thuật, giải Bóng chuyền hơi trong khuôn khổ Lễ hội Mừng Đảng – Mừng Xuân Quý Mão năm 2023.
Tổng lượng khách du lịch quý I năm 2023 đạt 1.454.247 lượt khách, tăng 92,4% so với cùng kỳ, đạt 38,7% so với kế hoạch năm 2023. Trong đó: Khách quốc tế đạt 36.639 lượt khách, tăng 2.134% so với cùng kỳ, đạt 18,3% so với kế hoạch năm 2023; Khách trong nước đạt 1.417.608 lượt khách, tăng 87,9% so với cùng kỳ, đạt 39,8% so với kế hoạch năm 2023. Doanh thu ước đạt 1138,7 tỷ đồng, tăng 311% so với cùng kỳ, đạt 40% so với kế hoạch năm 2023.
7.5. Giáo dục
Tổ chức tập huấn nghiệp vụ coi thi nói Tiếng Anh, Tiếng Trung và thi thực hành Tin học kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm học 2022 - 2023. Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2022 - 2023. Tổ chức kỳ thi tuyển viên chức các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo bổ sung năm 2022. Dự Hội nghị tuyển sinh năm 2023 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức.
Tổ chức Hội thi giáo viên chủ nhiệm giỏi giáo dục thường xuyên (GDTX) năm học 2022 - 2023. Tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi các môn khoa học tự nhiên (KHTN) cấp trung học phổ thông (THPT). Tổ chức giới thiệu, bồi dưỡng kiến thức về hệ thống trực tuyến onluyen.vn để ôn tập, kiểm tra, khảo sát trực tuyến học sinh lớp 12 THPT. Tổ chức phát động đợt vận động đặc biệt ủng hộ xây dựng đường kiểm tra cột mốc, bảo vệ biên giới tỉnh Lạng Sơn, chào mừng Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-2030.
7.6. Trật tự - An toàn giao thông[9]
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hoàn thành công tác tuyển quân năm 2023, đảm bảo chất lượng và chỉ tiêu được giao. Tháng 3 năm 2023, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ; làm 03 người chết, 01 người bị thương. Cộng dồn quý I năm 2023 toàn tỉnh xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông làm 14 người chết, 05 người bị thương. Nguyên nhân tai nạn chủ yếu là do phóng nhanh vượt ẩu của người điều khiển phương tiện đã không làm chủ được tốc độ.
7.7. Môi trường
Trong tháng 3, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, không có vi phạm môi trường được phát hiện và xử lý. So với tháng 3 năm 2022 cũng không có vi phạm môi trường được phát hiện và xử lý. Lũy kế từ đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn phát hiện và xử lý 01 vụ, xử phạt 160 triệu đồng.
7.8. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, trên khu vực tỉnh Lạng Sơn không xảy ra thiên tai; so với tháng 3 năm 2022 (xảy ra rét đậm, rét hại làm thiệt hại hoa màu, gia súc, giá trị thiệt hại 10 tỷ đồng) giảm 10 tỷ đồng giá trị thiệt hại.
 

[1] Nguồn: Sở Tài chính
[2] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn
[3] Lễ hội Trò Ngô (huyện Hữu Lũng), Lễ hội Ná Nhèm (huyện Bắc Sơn), Lễ hội Phài Lừa (huyện Bình Gia), Lễ hội Bủng Kham (huyện Tràng Định), hội đền Bắc Lệ (huyện Hữu Lũng), lễ hội đền Mẫu (huyện Cao Lộc).
[4] Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Ga đường sắt Đồng Đăng, cửa khẩu chính Chi Ma, cửa khẩu phụ Tân Thanh, cửa khẩu phụ Cốc Nam.
[5] Nguồn: Sở Công thương.
[6] Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh.
[7] Nguồn: Sở Y tế.
[8] Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh.
     [9] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh

Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây