1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp
1.1.1 Trồng trọt
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng ước thực hiện được 32.227,56 ha, giảm 0,03% so với cùng kỳ, do người dân chuyển sang trồng cây khác có giá trị kinh tế cao hơn. Trong quá trình sản xuất cơ quan chuyên môn đã hướng dẫn người dân phòng trừ các loại sâu bệnh kịp thời. Năng suất lúa ước đạt 38,97 tạ/ha, tăng 0,05% so với cùng kỳ, do người dân sử dụng giống lúa thuần chủng, chất lượng hơn, cho năng suất cao phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng trên địa bàn như giống lúa Bao thai... sản lượng lúa đạt 13.640,98 tấn, tăng 1,51% so với cùng kỳ, sản lượng lúa tăng là do năng suất tăng.
- Cây ngô: Diện tích gieo trồng đến tháng 10 ước thực hiện 18.806,26 ha, tăng 0,48% so với cùng kỳ. Diện tích cây ngô tăng do người dân chăn nuôi tái đàn lợn trở lại, nên mở rộng diện tích trồng ngô làm thức ăn chăn nuôi. Năng suất ước đạt 46,75 tạ/ha, tăng 0,04%, sản lượng 3.892,59 tấn, tăng 0,57%.
- Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng ước thực hiện 1.342,53 ha, giảm 2,94%, năng suất đạt 70,78 tạ/ha, tăng 0,03%, sản lượng đạt 433,53 tấn, tăng 1,13 tấn so với cùng kỳ.
- Đậu tương: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 174,38 ha, tăng 0,65% so với cùng kỳ năm trước. Năng suất thu hoạch ước 15,9 tạ/ha, tăng 0,06% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thu hoạch trong tháng ước 277,26 tấn, tăng 0,71% so với cùng kỳ năm trước.
- Cây lạc: Diện tích thu hoạch dự ước đạt 322,41 ha, tăng 0,44% so với cùng kỳ. Giá bán lạc tươi 2 năm gần đây ổn định từ 18.000 - 22.000 đồng/kg, lạc khô đã bóc vỏ từ 55.000 – 65.000 đồng/kg, năng suất đạt 18,48 tạ/ha, tăng 0,76%, sản lượng đạt 589,62 tấn tăng 0,15% so với cùng kỳ năm trước.
1.1.2 Chăn nuôi
Đàn trâu vẫn giảm dần do hiệu quả kinh tế không cao và môi trường chăn thả bị thu hẹp, một số hộ xuất bán trâu để lấy vốn đầu tư vào trồng rừng. Ước tính số lượng đầu con trâu hiện có 63.150 con; số con trâu xuất chuồng ước đạt 1.830 con, giảm 11,51% so với cùng kỳ; sản lượng xuất chuồng đạt 494,1 tấn.
Đàn bò tăng so với cùng kỳ do có thị trường tiêu thụ tốt, giá bán thịt bò hơi ở mức cao, người chăn nuôi có lãi ổn định. Ước tính số lượng đầu con bò hiện có 28.350 con, tăng 0,14% so với cùng kỳ; số con bò xuất chuồng đạt 690 con, tăng 25,45%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng 138 tấn, tăng 14,05% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn, số con hiện có ước 179.400 con, tăng 6,63% so với cùng kỳ năm trước. Số lượng đầu con tăng là do dịch bệnh trên đàn lợn được kiểm soát, giá bán tăng cao, người chăn nuôi có lãi, nên người dân đã tăng cường tái đàn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán năm 2023. Số con xuất chuồng ước 27.243 con, tương đương sản lượng hơi xuất chuồng đạt 2.206.68 tấn, tăng 6,64% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn gia cầm phát triển bình thường, không có dịch bệnh lớn xảy ra, giá cả và thị trường tiêu thụ ổn định. Ước tổng đàn gia cầm hiện có 4.410 nghìn con, giảm 0,14% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia cầm đạt 1.240,15 tấn, tăng 1,20%. Sản lượng trứng gia cầm đạt 5.512,63 nghìn quả.
1.2. Lâm nghiệp
Ước tính tháng 10 năm 2022, diện tích rừng trồng mới đạt 864 ha, tăng 0,47% so với cùng kỳ. Số cây trồng phân tán thực hiện được 148,5 nghìn cây, (tương đương với 74,25 ha).
Tổng sản lượng gỗ khai thác trong tháng 10 đạt 24.353,38 m3, tăng 19,76% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là gỗ nhóm 5; 6 và 7. Nguyên nhân tăng là do trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế, các cây trồng đã đến tuổi khai thác, người dân và doanh nghiệp chủ động khai thác để tái sản xuất rừng trồng mới. Khai thác gỗ tập trung chủ yếu ở các huyện: Hữu Lũng, Lộc Bình, Đình Lập.
Sản lượng củi khai thác và tiêu thụ trong tháng 10 ước đạt 111.526,18 ste, giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước. Khai thác củi tập trung chủ yếu ở khu vực cá thể, được dùng cho mục đích đun nấu và một phần được tiêu thụ trên thị trường. Khai thác củi giảm chủ yếu do nhu cầu sử dụng tiêu dùng củi trong dân giảm.
1.3. Thủy sản
Trong tháng diện tích nuôi trồng thủy sản tương đối ổn định, đối tượng nuôi trồng thủy sản phong phú, môi trường nuôi không bị ô nhiễm và không có dịch bệnh xảy ra.
2. Sản xuất công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10/2022
2.1.1. So với tháng trước
IIP tháng 10 tăng 21,87% so với tháng trước, do trong tháng 9 ngành sản xuất và phân phối điện giảm sản lượng vì thay phiên dừng lò sản xuất để bảo dưỡng định kỳ theo kế hoạch.
Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 19,93%, trong đó: Sản phẩm than tăng 34,49%, đảm bảo đáp ứng sản lượng than cho sản xuất điện cho những tháng cuối năm; khai khoáng khác (sản phẩm đá xây dựng khác) tăng 7,71% do các công trình xây dựng trên địa bàn tăng, đặc biệt là các công trình dự án trọng điểm của tỉnh đẩy nhanh tiến độ trong nhưng tháng cuối năm.
Sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được đánh giá diễn ra khá sôi động, nhất là khu vực cá thể và tập trung ở lĩnh vực chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ với sản phẩm chính là ván bóc; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (cửa hoa, cửa sắt), sản xuất giường, tủ, bàn, ghế. Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Clanhke và xi măng Portland đen dự ước tăng, giá xi măng dự kiến sẽ ổn định hơn trong giai đoạn cuối năm sau những đợt tăng liên tục trước đó, cơ sở sản xuất tập trung nguồn lực cạnh tranh thị phần trong nước thông qua giá bán nhằm chiếm lĩnh thị trường; những tháng cuối năm cũng là giai đoạn các dự án đầu tư xây dựng được đẩy mạnh, nhu cầu tiêu thụ nguyên vật liệu xây dựng tăng giúp nhiều doanh nghiệp xử lý được hàng tồn kho và cân đối cung cầu trên thị trường nội địa.
Ngành sản xuất và phân phối điện: Sau thời gian dừng lò bảo dưỡng định kỳ, doanh nghiệp sản xuất điện trở lại, hoạt động bình thường, sản lượng tăng cao so với tháng trước; điện thương phẩm ổn định phục vụ đủ nhu cầu sử dụng điện của các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
Trong ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định với hoạt động khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 1,07%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 0,01%.
2.1.2. So với cùng kỳ
So với cùng kỳ năm trước, IIP tháng 10 năm 2022 tăng 8,68%. Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 4,58%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,8%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 6,14%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 2,77%.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng, hoạt động khai thác than giảm 1,21%; hoạt động khai thác đá giảm 7,88%, một số doanh nghiệp do lượng tồn kho sản phẩm lớn đã giảm sản lượng sản xuất trong tháng để tập trung đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, một số sản phẩm sản xuất tăng so với tháng cùng kỳ, như: Dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da có chỉ số sản xuất tăng rất cao do doanh nghiệp chủ động tìm kiếm, ký kết đơn hàng gia công cho các doanh nghiệp trong nước với khối lượng gia công lớn, tuy nhiên đơn giá thấp. Sản xuất kim loại (sản phẩm chì thỏi) tăng 500%, do cùng kỳ năm trước đơn vị sản xuất tạm nghỉ để sửa chữa nhà xưởng, bảo dưỡng máy móc sản xuất; trong tháng 10/2022, đơn vị sản xuất tăng công suất hoạt động, đảm bảo đơn hàng. Sản phẩm rượu trắng tăng cao, do dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, các nhà hàng, quán ăn đã mở cửa trở lại, nhiều lễ hội và hoạt động du lịch phát triển dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tăng. Sản phẩm in, sao chép các loại bản ghi tăng 12,81% với nguyên vật liệu đầu vào vật tư chính như giấy ổn định, đáp ứng đủ và kịp thời cho quá trình sản xuất. Sản phẩm ván ép tăng cao do lợi thế quỹ đất rừng sản xuất lớn để trồng rừng, nguyên liệu gỗ cung cấp ổn định cho công nghiệp chế biến.
Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động phụ thuộc theo đơn đặt hàng và theo mùa vụ, như: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic, sản phẩm kim loại, sản phẩm chè,…
Ngành công nghiệp điện: Sự tăng, giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 10/2022 tăng 5,09%; điện thương phẩm tăng 14,96% so với cùng kỳ, hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại bình thường như lúc chưa có dịch bệnh Covid-19 dẫn đến nhu cầu tiêu dùng điện tăng.
Ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 6,54%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 1,05%. Những ngành này hoạt động tương đối ổn định.
2.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2022 so với cùng kỳ
Sản xuất công nghiệp dự ước trong 10 tháng đầu năm 2022 nhu cầu và sản lượng sản xuất đều tăng, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đã hoạt động hiệu quả với IIP 10 tháng đầu năm 2022 tăng 8,50% so với cùng kỳ năm trước. Ngành khai khoáng tăng 5,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,23%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,44%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,57%.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng góp lớn vào mức tăng chung của toàn ngành, như: Dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da do nhu cầu đặt hàng gia công tăng cao. Các sản phẩm từ gỗ như: gỗ dán, gỗ lạng, ván ép công nghiệp với lợi thế có sẵn nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng tại địa phương ngày càng lớn, số cơ sở chế biến gỗ tăng cao so với cùng kỳ (nhưng đang có xu hướng chững lại do lạm phát ở thị trường Mỹ và châu Âu, bên cạnh đó Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đang điều tra chống lẩn tránh thuế sản phẩm gỗ dán từ các doanh nghiệp gỗ Việt Nam). Sản phẩm công nghiệp đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh là sản phẩm Colophan và axit nhựa cây dự ước trong 10 tháng đầu năm 2022 đạt 10,03 nghìn tấn, tăng 24,61% so với cùng kỳ, với sản lượng nhựa thông khai thác trong 10 tháng đầu năm ước tăng cao là yếu tố thuận lợi đảm bảo về nguyên liệu cho quá trình sản xuất thường xuyên của các doanh nghiệp. Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, tăng ở hoạt động gia công cơ khí trong các cơ sở cá thể như cơ sở sản xuất khung nhôm, cửa kính, hàn xì lợp mái tôn, hoạt động xây dựng tăng dẫn đến nhu cầu sử dụng sản phẩm này tăng. Các hoạt động du lịch dần mở cửa, nhà hàng, quán ăn mở rộng hoạt động, nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ ngành công nghiệp sản xuất, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ uống tăng theo.
Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Xi măng Portland đen, Clanhke dự ước giảm do chi phí nguyên vật liệu đầu vào (than) tăng, đẩy giá thành sản phẩm tăng trong khi giá xuất khẩu không tăng dẫn đến lợi nhuận thấp, đơn vị cắt giảm khối lượng sản xuất, chuyển hướng tăng tiệu thụ nội địa. Sản lượng điện sản xuất chiếm tỷ trọng lớn là của Công ty cổ phần Nhiệt điện Na Dương phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc, dự ước trong 10 tháng đầu năm 2022 sản lượng điện đạt 682,75 triệu Kwh, tăng 7,90% so với cùng kỳ. Sản phẩm than của Công ty Than Na Dương tăng theo nhu cầu sản xuất điện của Công ty cổ phần Nhiệt điện Na Dương, sản lượng ước đạt trên 465,73 nghìn tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ.
2.3. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10 giảm 1,01% so với tháng trước (khu vực doanh nghiệp Nhà nước ổn định; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 1,56%; khu vực doanh nghiệp FDI giảm 0,79%) và giảm 4,82% so với cùng kỳ năm trước (khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 24,03%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 8,33%; khu vực doanh nghiệp FDI tăng 15,21%), mức giảm tập trung ở ngành ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 11%, cùng với quá trình cổ phần hóa, Công ty cấp thoát nước Lạng Sơn cắt giảm lao động. Bình quân, 9 tháng đầu năm 2022, chỉ số sử dụng lao động giảm 4,45% so với cùng kỳ năm trước.
3. Đầu tư, xây dựng
Hoạt động đầu tư, xây dựng tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công, vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) năm 2022; các ngành, các cấp thành lập 03 đoàn kiểm tra tình hình thực hiện giải ngân của các chủ đầu tư; kiểm tra tiến độ triển khai thực hiện các chương trình MTQG; các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố tập trung cao độ hoàn thiện các cơ chế, chính sách thuộc trách nhiệm của địa phương, các thủ tục đầu tư dự án; chủ động lồng ghép, huy động các nguồn lực để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch đề ra, trong đó ưu tiên bố trí vốn từ 02 Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; giảm nghèo bền vững cho nhiệm vụ, tiêu chí xây dựng nông thôn mới(cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất); tăng cường theo dõi, giám sát, tổ chức họp định kỳ hằng tháng, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân, phấn đấu hoàn thành giải ngân 100% kế hoạch vốn năm 2022 bao gồm cả vốn chương trình MTQG (không bao gồm kế hoạch vốn ODA đề nghị giảm trừ).
Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 10/2022 thực hiện được 274,1 tỷ đồng, tăng 18,03% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 158,8 tỷ đồng, giảm 2,43%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 115,3 tỷ đồng, tăng 65,92%. Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh 10 tháng năm 2022 ước thực hiện 2.090,8 tỷ đồng, giảm 9,05% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 1.251,6 tỷ đồng, giảm 16,13%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 839,3 tỷ đồng, tăng 4,06% so với cùng kỳ.
* Tiến độ thực hiện một số dự án trên địa bàn tỉnh:
- Dự án Cải tạo nâng cấp tuyến Cao Lộc - Ba Sơn (ĐH.28), huyện Cao Lộc có tổng mức đầu tư 299,7 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 10/2022 ước thực hiện được 138 tỷ đồng, đạt 46,04% so với kế hoạch.
- Dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập (WB8) có tổng mức đầu tư 196,8 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 10/2022 ước thực hiện được 128,5 tỷ đồng, đạt 65,29% so với kế hoạch.
- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 10/2022 ước thực hiện được 588,6 tỷ đồng, đạt 59,56% kế hoạch.
- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần), công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 10/2022 ước thực hiện được 520,3 tỷ đồng, đạt 37,77% kế hoạch.
4. Tài chính, ngân hàng
4.1. Tài chính
- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện tháng 10 năm 2022 là 464,1 tỷ đồng.Trong đó: Thu nội địa là 134,1 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 330 tỷ đồng.
Lũy kế ước thực hiện 10 tháng năm 2022 là 5.851,7 tỷ đồng, đạt 74,5% so với dự toán, bằng 64,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Thu nội địa là 2.250,3 tỷ đồng, đạt 95,8% dự toán, giảm 12,9% so với cùng kỳ năm 2021; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 3.599,5 tỷ đồng, đạt 65,4% so với dự toán giao, giảm 44,2% so với cùng kỳ năm 2021; các khoản huy động, đóng góp là 1,9 tỷ đồng. Mặc dù công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả được tăng cường; các chính sách phát triển cửa khẩu như: xây dựng cửa khẩu số, phát triển đại lý hải quan, triển khai phương thức giao nhận hàng hóa xuất, nhập khẩu mới được tập trung triển khai mạnh mẽ để duy trì và tăng hiệu suất thông quan, đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu của hai bên; tuy nhiên, phía Trung Quốc tiếp tục kiên trì thực hiện chính sách “Zero Covid”, áp dụng nhiều biện pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh và nhiều lần thay đổi phương thức giao, nhận hàng hóa xuất, nhập khẩu làm ảnh hưởng đến năng lực thông quan, hoạt động thông quan hàng hóa xuất, nhập khẩu tập trung chủ yếu tại 04 cửa khẩu (Hữu Nghị, Ga đường sắt quốc tế Đồng Đăng, Chi Ma và Tân Thanh), riêng cửa khẩu Cốc Nam mới khôi phục thông quan hàng hóa trở lại từ ngày 26/9/2022. Đồng thời việc thực hiện chính sách giảm thuế GTGT từ 10% xuống 8% đối với phần lớn các hàng hóa nhập khẩu theo Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ, lộ trình cắt giảm thuế theo Hiệp định thương mại ASEAN - Trung Quốc giai đoạn 2018 - 2022, áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời của Bộ Công Thương đã ảnh hưởng mạnh đến số thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu.
Ước thu nội địa 10 tháng năm 2022 giảm 12,9% so với cùng kỳ; nguyên nhân do tiếp tục triển khai các văn bản quy định của Trung ương nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: Giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ; giảm thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022, Nghị quyết số 20/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; gia hạn thời gian nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022 theo Nghị định số 34/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ.
- Về chi ngân sách địa phương
Chi ngân sách địa phương được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, định mức. Đối với chi đầu tư phát triển và các chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ khác: Công tác giải ngân, thanh toán các nguồn vốn, tạm ứng theo hợp đồng được khẩn trương, kiểm soát chặt chẽ, đúng chế độ, chính sách, đơn giá, định mức theo quy định hiện hành. Tình hình giải ngân vốn đầu tư thấp hơn so với cùng kỳ do nguồn thu sử dụng đất phụ thuộc vào tiến độ thực hiện thu thực tế; giá cả một số hàng hóa, nguyên vật liệu; công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư một số dự án còn gặp khó khăn, vướng mắc, thời tiết mưa nhiều dẫn đến tiến độ thi công các dự án. Đối với chi thường xuyên: điều hành trong phạm vi dự toán được giao, trên cơ sở tiêu chuẩn, chế độ, định mức; quản lý chi ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả; nghiêm túc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện tháng 10 năm 2022 là 1.497,3 tỷ đồng, lũy kế tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 10 tháng đầu năm 2022 là 8.379,6 triệu đồng, đạt 69,8% dự toán giao đầu năm, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Chi trong cân đối ngân sách địa phương là 7.242,9 tỷ đồng, đạt 75% dự toán giao đầu năm và tăng 9,6% so cùng kỳ năm 2021 (Chi đầu tư phát triển là 1.019,5 tỷ đồng, đạt 80,4% dự toán, giảm 8,8% so với cùng kỳ; chi thường xuyên là 6.097 tỷ đồng, đạt 75,2% dự toán, tăng 14,2% so với cùng kỳ); chi các chương trình mục tiêu quốc gia và một số chương trình, dự án, nhiệm vụ khác là 1.136,7 đồng đạt 48,4% dự toán, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2021.
4.2. Ngân hàng
Chính sách điều hành tín dụng trên địa bàn được thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế. Khả năng thanh khoản của các ngân hàng được đảm bảo, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế và chi trả cho khách hàng, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ước thực hiện đến 31/10/2022: Tổng huy động vốn ước đạt 34.700 tỷ đồng, tăng 3,7% so với 31/12/2021. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 39.000 tỷ đồng, tăng 3,9% so với 31/12/2021.
5. Thương mại và dịch vụ
5.1. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Do phía Trung Quốc tiếp tục thực hiện phương châm “Zero Covid”, thường xuyên thay đổi phương thức giao nhận hàng hóa (cắt moóc trả hàng tại vùng đệm – phương thức giao nhận không tiếp xúc), doanh nghiệp phải chịu thêm các khoản chi phí như cắt moóc, lưu xe... nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất, nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Kim ngạch hàng hóa xuất, nhập khẩu trong tháng 10/2022 đạt trên 316,5 triệu USD ở tất cả loại hình xuất, nhập khẩu, lũy kế 10 tháng ước đạt 2.137,5 triệu USD, giảm 29,9% so với cùng kỳ. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 135,9 triệu USD; lũy kế 10 tháng ước đạt 597,6 triệu USD, giảm 60,2% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu trong tháng ước đạt 180,6 triệu USD, lũy kế 10 tháng ước đạt 1.539,9 triệu USD, giảm 24,9% so với cùng kỳ.
5.2. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Doanh thu các hoạt động thương mại trong tháng 10/2022 dự ước tăng hơn so với tháng trước và cùng kỳ, cụ thể:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10/2022 ước tính đạt 1.842,6 tỷ đồng, tăng 3,22% so với tháng trước và tăng 18,14% so với cùng kỳ năm trước. Xét doanh thu theo nhóm ngành hàng hoá, thì có 11/12 nhóm ngành hàng hoá có mức tăng hơn so với tháng trước, lần lượt: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 2,02%; nhóm hang may mặc tăng 3,61%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 2,88%; nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 7,96%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 3,04%; nhóm ô tô con tăng 5,55%; nhóm xăng dầu tăng 4,66%; nhiên liệu khác tăng 6,02%; nhóm hàng hoá khác tăng 11,89%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô xe máy tăng 11,72%. Các nhóm ngành hàng hóa khác còn lại giảm nhẹ ở mức ổn định không có hiện tượng biến động về giá cũng như khan hiếm mặt hàng.
Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá 10 tháng năm 2022 đạt 17.875,4 tỷ đồng, tăng 13,58% so với cùng kỳ năm trước.
5.3. Dịch vụ
5.3.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 10/2022 dự ước doanh thu đạt 183,7 tỷ đồng, tăng 5,45% so với tháng trước: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 9,1 tỷ đồng, tăng 5,55%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 174,6 tỷ đồng, tăng 5,45% so với tháng trước. Doanh thu dịch vụ lữ hành tháng 10/2022 ước đạt 1,2 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 5,12%; so với cùng kỳ tăng 62,68%.
Dự ước 10 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ du lịch lữ hành đạt 1.756,3 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 28,15%. Hiện nay, tỉnh cũng đã và đang tập trung đầu tư phát triển các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tại một số huyện trên địa bàn tỉnh, như: Lộc Bình, Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng…. mục tiêu phát triển du lịch là một trong những ngành mũi nhọn của tỉnh trong giai đoạn tới.
5.3.2. Doanh thu dịch vụ khác
Các hoạt động dịch vụ như: Kinh doanh bất động sản, dịch vụ hành chính và hỗ trợ trong tháng 10/2022 tăng hơn so với tháng trước là do đang vào mùa cao điểm thi công các dự án, công trình xây dựng trọng điểm do đó nhu cầu sử dụng các dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ thuê máy móc công trình có xu hướng tăng, tác động đến doanh thu hoạt động dịch vụ tăng hơn so với tháng trước.
Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 10/2022 dự ước đạt 40,9 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 4%. Dự ước 10 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ khác đạt 420 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 19,78%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đang được chú trọng đầu tư và phát triển thu hút khách du lịch từ mọi miền đến thăm quan và du lịch, nghỉ dưỡng các cơ sở hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống cũng được trang bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ đáp ứng được nhu cầu của người dân.
5.4. Vận tải
Nhìn chung, từ đầu năm đến nay do tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước được kiểm soát tốt, nhu cầu đi lại của người dân cũng tăng lên, lưu lượng hành khách vận chuyển, luân chuyển tăng; khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hóa cũng tăng cao hơn so với năm 2021 (Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trên địa bàn tỉnh phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15, 16 và 19 của Thủ tướng Chính phủ, chủ động thích ứng với tình hình mới, nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nói chung và hoạt động vận tải nói riêng đạt thấp) do hiện nay các hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại bình thường.
Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 10/2022 ước đạt 183,1 tỷ đồng, tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 20,3 tỷ đồng, tăng 1,30%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 6,10%; hành khách luân chuyển tăng 8,86% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 106,4 tỷ đồng, tăng 0,68%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 19,03%; hàng hóa luân chuyển tăng 30,25% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 56,12 tỷ đồng, tăng 55,83%; hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 0,31 tỷ đồng, tăng 1,63% so với cùng kỳ năm 2021.
Dự ước doanh thu vận tải 10 tháng năm 2022 ước đạt 1.533,8 tỷ đồng, tăng 14,60% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hành khách đạt 187,7 tỷ đồng tăng 26,16%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 12,16%; hành khách luân chuyển tăng 21,30% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hoá đạt 901,31 tỷ đồng, tăng 12,30%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 26,20%; hàng hoá luân chuyển tăng 32,10% so với cùng kỳ. Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 441,8 tỷ đồng tăng 15%; dịch vụ chuyển phát đạt 3 tỷ đồng tăng 4,94% so với cùng kỳ.
6. Chỉ số giá
6.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 10/2022 giảm 0,17% so với tháng trước, tăng 4,22% so với cùng kỳ năm trước:
* So với tháng trước: Trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 6 nhóm hàng tăng, 2 nhóm hàng giảm và các nhóm hàng còn lại không thay đổi so với tháng trước. Chỉ số giá của một số nhóm hàng chủ yếu như sau:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,16%: Nhóm hàng thực phẩm là nhóm thường có biến động nhất, so với tháng trước có giảm nhẹ 0,21%. Trong đó, giá thịt gia súc, gia cầm tháng này giảm hơn so với tháng trước, gia súc giảm 1,47%, gia cầm giảm 0,26%, riêng giá thịt lợn giảm 0,72%, gà giảm 0,32% là do nguồn cung ứng dồi dào hơn. Giá thịt lợn giảm nhưng giá dầu mỡ vẫn tăng 0,28%. Giá thịt gia cầm giảm nên giá sản phẩm trứng các loại cũng giảm 0,14%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,05%, do nguồn hàng cung ứng ít, một số mặt hàng rau vào cuối vụ nên giá cả có tăng, bên cạnh đó nhu cầu dịch vụ ăn uống và tiêu dùng của người dân trong những tháng cuối năm tăng cao, các mặt hàng thực phẩm cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn tăng. Nhóm lương thực tăng 0,03%, tăng chủ yếu ở mặt hàng gạo và các loại lương thực chế biến như bún phở, bánh đa… do giá nguyên liệu đầu vào tăng nhẹ. Ăn uống ngoài gia đình tăng 0,04%.
- May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,71% tăng nhẹ ở một số mặt hàng như giầy dép, khăn choàng, quần áo may sẵn...
- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (VLXD) tăng nhẹ 0,06%: Chỉ số giá của một số mặt hàng trong nhóm có sự biến động tăng, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,47%, giá dịch vụ sửa chữa nhà cửa tăng 0,22% do giá một số VLXD tăng ở chi phí vận chuyển. Giá điện tăng 1,46%; ga và các loại chất đốt khác ổn định.
- Nhóm giao thông giảm 2,21%: Trong đó, chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 5,80% so với tháng trước, do trong tháng có 3 lần điều chỉnh tăng, giảm giá xăng, dầu vào các ngày 03/10, 11/10 và 21/10. Cụ thể:
Ngày 03/10, sau khi thực hiện việc trích lập, không chi sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giá bán các mặt hàng xăng, dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường như sau: Xăng E5 RON92 còn 20.730 đồng/lít (giảm thêm 1.050 đồng/lít); giá các mặt hàng dầu cũng đồng loạt giảm, dầu diesel còn 22.200 đồng /lít (giảm thêm 330 đồng/lít), dầu hoả còn 21.680 đồng/lít (giảm thêm 760 đồng/lít), dầu mazut cũng giảm còn 14.090 đồng/lít (giảm thêm 560 đồng/lít).
Ngày 11/10, Liên Bộ Công thương – Tài chính thông báo điều chỉnh giá bán xăng dầu trên phạm vi cả nước, các mặt hàng xăng dầu đồng loạt tăng, trong đó tăng mạnh nhất là dầu. Xăng E5 RON92 có giá bán không cao hơn 21.292 đồng/lít (tăng 560 đồng lít); xăng RON95 – III có giá bán không cao hơn 22.007 đồng/lít (tăng 564 đồng/lít); dầu Diesel có giá bán không cao hơn 24.187 đồng/lít (tăng 1.979 đồng/lít).
Ngày 21/10, Liên Bộ Công thương – Tài chính tiếp tục điều chỉnh tăng nhẹ các loại xăng dầu. Xăng E5 RON92 ở mức 21.490 đồng/lít (tăng 200 đồng/lít); xăng E5 RON92 ở mức 22.340 đồng/lít (tăng 340 đồng/lít). Dầu hoả ở mức 23.660 đồng/lít (tăng 840 đồng /lít); dầu diesel ở mức 24.780 đồng/lít (tăng 600 đồng/lít)
* So với cùng kỳ năm trước
CPI chung toàn tỉnh tháng 10/2022 tăng 4,22% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,56%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,73%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 3,38%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,88%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,89%; nhóm giao thông tăng 0,82%; nhóm giáo dục tăng 14,87%; nhóm văn hóa giải trí và du lịch tăng 9,47%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,60%.
6.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
- Chỉ số giá vàng: Trong tháng 10/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá tăng theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước tăng 1,34%, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,95%, so với năm gốc năm 2019 tăng 38,35%. Bình quân 10 tháng năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 3,44% so với bình quân cùng kỳ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ: Giá đô la thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường đô la trong nước cũng có biếm động mạnh. Đô la so với tháng trước tăng 2,11%, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,21%, so với năm gốc năm 2019 tăng 4,30%. Bình quân 10 tháng năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,73% so với bình quân cùng kỳ.
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội
Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách pháp luật lao động cho 1.384 lượt người lũy kế từ đầu năm 22.940 lượt người; số người đăng ký tìm việc làm: 75 người; số người được giới thiệu việc làm: 57 người, số người nhận được việc làm là 35 người, lũy kế từ đầu năm 1.020 người. Số người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp 425 người, lũy kế từ đầu năm là 4.774 người; số người có quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng là 491 người, lũy kế từ đầu năm là 4.129 người với tổng số tiền chi trả trợ cấp là 6,2 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm là 54,9 tỷ đồng.
Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 3.778 người có công và thân nhân với kinh phí 7,1 tỷ đồng, lũy kế chi trả trợ cấp cho 37.976 lượt người có công, kinh phí 70,5 tỷ đồng. Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến là 167 hồ sơ; lũy kế tiếp nhận và giải quyết là 1.311 hồ sơ.
7.2. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng
Tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch Covid-19, đẩy mạnh tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 cho các đối tượng theo tiến độ, đặc biệt là các đối tượng tiêm mũi 3, mũi 4 cho người trên 18 tuổi, tiêm mũi 3 trẻ 12-18 tuổi, tiêm mũi 2 trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi. Đảm bảo y tế “vùng xanh” phục vụ hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa khu vực các cửa khẩu theo Phương án số 25/PA-UBND ngày 24/5/2022 của UBND tỉnh. Tăng cường giám sát dịch bệnh, đặc biệt các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, dịch bệnh theo mùa như sốt xuất huyết, tay chân miệng, đậu mùa khỉ, bệnh dại,... đẩy mạnh thực hiện các hoạt động duy trì hiệu quả Chương trình mục tiêu y tế - dân số. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và thái độ chăm sóc phục vụ bệnh nhân; giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy chế chuyên môn. Thực hiện Đề án “Khám chữa bệnh từ xa” tại 14/14 bệnh viện theo kế hoạch. Thực hiện Dự án 7 “Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số: phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2022 trong giai đoạn 2021-2025.
7.2.1. Công tác y tế dự phòng
* Công tác phòng chống dịch Covid-19 tính đến 15h00 ngày 23/10/2022
Thời gian gần đây dịch diễn biến phức tạp, số ca mắc có đã tăng trở lại (1.080 ca/tháng 8; 1.782 ca/tháng 9). Trong tháng (từ ngày 15/9 đến 14/10) phát hiện 931 F0; từ 15/10 đến 23/10 ghi nhận thêm 170 ca. Lũy kế từ ngày 06/5/2021 đến nay 159.704 F0 (trong đó 545 ca mắc lần 2; 13 ca mắc lần 3 được báo cáo); đã khỏi bệnh 159.523 ca; tử vong 101 ca. Tính từ ngày 01/01/2022 đến nay đến nay ghi nhận 157.774 ca. Hiện còn điều trị 80 F0 (65 ca mắc lần 1, 14 ca mắc lần 2; 01 ca mắc lần 3; 72 ca điều trị tại tỉnh, 08 ca điều trị ngoại tỉnh), trong 72 ca điều trị tại tỉnh có 34 người bệnh điều trị tại các cơ sở y tế, 38 người bệnh đang điều trị tại nhà/11 huyện, thành phố.
Đánh giá cấp độ dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ Y tế (đánh giá ngày 03/10/2022): Quy mô xã: 200/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh”.
* Tình hình tiêm chủng: Lũy kế tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận 2.049.156 liều; đã tiêm 2.038.300 liều. Từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1, mũi 2 đạt >100% (Bao gồm tiêm cho người ngoại tỉnh); Tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại (mũi 3) đạt 91,16%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại lần 2 (mũi 4) đạt 106,16% (bao gồm cả đối tượng mở rộng). Trẻ em từ 12-17 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 98,78%; mũi 2 đạt 97,12%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại (mũi 3) đạt 72,84%. Trẻ từ đủ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 97,42%; tỷ lệ mũi 2 đạt 71,96%.
* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác
Công tác phòng chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác tiếp tục được kiểm soát, không để dịch lớn xảy ra. Trong tháng có 09 bệnh có số mắc tăng[7] và 04 bệnh có số mắc giảm[8] hoặc tương đương so với cùng kỳ; các bệnh truyền nhiễm phân bố rải rác, không có yếu tố dịch tễ gây dịch hay ổ dịch lớn.
Số liệu cộng dồn đến ngày 30/9/2022 so với cùng kỳ năm 2021 có 05 bệnh có số mắc tăng[9] và 12 bệnh có số mắc giảm[10] hoặc tương đương. Các ca bệnh phân bố rải rác, không có yếu tố dịch tễ gây dịch.
7.2.2. Công tác khám chữa bệnh
Các đơn vị khám, chữa bệnh đảm bảo trực 24/24 giờ. Kết quả trong tháng 10: Khám được 136.479 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 12.997 lượt; điều trị ngoại trú cho 10.135 lượt. Cộng dồn 10 tháng: khám được 1.121.300 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 119.796 lượt, đạt 81% kế hoạch năm; điều trị ngoại trú cho 140.452 lượt.
Khám chữa bệnh ngoài công lập: Trong tháng khám được 25.245 lượt, trong đó số khám BHYT 19.157 lượt; chuyển viện 815 lượt; tổng số khám sức khỏe 2.558 lượt. Cộng dồn 10 tháng khám được 200.336 lượt, trong đó số khám BHYT 137.434 lượt; Chuyển viện 7.687 lượt; Tổng số khám sức khỏe 13.710 lượt.
7.3. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch
Tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng đất nước và của tỉnh. Thực hiện Đề án Phát triển thiết chế văn hóa thể thao tỉnh Lạng Sơn giai đoạn từ nay đến năm 2025 theo Quyết định 800/QĐ-UBND của UBND tỉnh.
Tiếp tục thực hiện tốt nghiệp vụ thư viện. Tổ chức triển lãm chuyên đề: “Đường số 4 rực lửa” kỷ niệm 75 năm chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947; 72 năm giải phóng Lạng Sơn 1950 và 20 năm thành lập thành phố Lạng Sơn. Mở cửa Nhà trưng bày Bảo tàng và phòng triển lãm chuyên đề; trong tháng phục vụ đón tiếp 102 lượt khách tham quan, học tập.
Chiếu phim và tuyên truyền đạt 138 buổi đến 29 lượt xã, 138 lượt thôn, lượt phục vụ trên 12.000 lượt người nghe, xem 828 lượt nội dung tuyên truyền. Thực hiện tốt công tác chiếu phim tại Rạp Đông Kinh với tổng số 08 phim, 41 xuất chiếu; chiếu phim và tuyên truyền cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, tính đến thời điểm hiện tại các đội chiếu bóng lưu động đã chiếu được 1.234/1.670 buổi chiếu, (trong đó có 364 buổi tuyên truyền Covid – 19 và các nội dung tuyên truyền khác) đạt 74% kế hoạch năm 2022. Tổ chức biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ chuyên môn phục vụ các sự kiện của tỉnh được 10 buổi, tính đến 15/10/2022 đã thực hiện tổ chức biểu diễn 80 buổi; trong đó biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị đạt 35 buổi.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động TDTT cơ sở nhằm thúc đẩy phòng trào tập luyện TDTT của người dân. Thực hiện tốt công tác đào tạo, huấn luyện vận động viên tham gia các giải thể thao khu vực và toàn quốc.
Dự ước tổng lượng khách tháng 10/2022 đạt 200.120 lượt khách. Trong đó: Khách quốc tế đạt 9.250 lượt khách; khách trong nước đạt 190.870 lượt khách. Lũy kế 10 tháng năm 2022 dự ước đạt 3.277.280 lượt khách, tăng 99,4% so với cùng kỳ. Trong đó: Khách quốc tế đạt 28.694 lượt khách, tăng 233,8% so với cùng kỳ; khách trong nước đạt 3.029.366 lượt khách, tăng 279,9% so với cùng kỳ, đạt 104,1% so với kế hoạch năm 2022.
7.4. Giáo dục
Thực hiện đẩy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp, các ngành về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trong công tác dạy và học; tăng cường truyền thông, rà soát đối tượng tiêm vắc xin phòng Covid-19. Triển khai khảo sát ý kiến tiêm vắc-xin phòng Covid-19 cho trẻ em dưới 5 tuổi các đơn vị trường học; tiếp tục tăng cường, rà soát công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện chính sách tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tập huấn, các kỳ thi, hội thi, trại huấn luyện Hoàng Văn Thụ tỉnh Lạng Sơn lần thứ V, năm 2022... Tổ chức các lớp bồi dưỡng ôn tập thi tốt nghiệp THPT các môn Toán, Ngữ Văn, Tiếng Anh lần 1. Tổ chức thực nghiệm chủ đề STEM theo đề án 904.
7.5. Trật tự - An toàn giao thông
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tổ chức thực hiện các đợt cao điểm trấn áp các loại tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội; kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi sai phạm về pháo, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trái phép. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, vi phạm pháp luật trên lĩnh vực hình sự, ma túy, kinh tế, môi trường. Trong tháng xảy ra 02 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 02 người, bị thương 01 người; lũy kế đến tháng 10 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 27 người, bị thương 12 người.
7.6. Môi trường
Trong tháng 10, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện, vì vậy không có vụ vi phạm cần phải xử lý và tiến hành xử phạt; so với tháng 10 năm 2021 giảm 01 vụ, giảm 60 triệu đồng số tiền xử phạt. Lũy kế từ đầu năm 2022 có 02 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, tổng số tiền xử phạt 90 triệu đồng, giảm 02 vụ so với cùng kỳ, giảm 190 triệu đồng tiền xử phạt.
7.7. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, trên khu vực tỉnh Lạng Sơn không xảy ra thiên tai; so với tháng 10 năm 2021 cũng không xảy ra thiên tai.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Lạng Sơn
Nguồn: Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn
Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
Tổng số ca mắc trong tháng 9/2022 là 1.782 ca; 235 ca mắc lần 2;11 ca mắc lần 3; 554 ca nhập viện/tổng số 1.782 ca mắc; 09 ca chuyển nặng. Tổng số ca mắc trong tháng 8/2022 là 1.080 ca; 127 ca mắc lần 2; 333 ca nhập viện/tổng số 1080 ca mắc; 10 ca chuyển nặng.
Sốt xuất huyết 07 ca (tăng 07 ca); Sởi 01 ca (tăng 01 ca); Tay chân miệng 05 ca (tăng 05 ca); Sốt rét 01 ca (tăng 01 ca); Cúm 738 ca (tăng 339 ca); Lỵ amip 03 ca (tăng 01 ca); Thủy đậu 09 ca (tăng 03 ca); Tiêu chảy 232 ca (tăng 70 ca); Viêm gan virut khác 17 ca (tăng 11 ca).
Viêm gan Virut B 0ca (giảm 01 ca);Bệnh do vi rut Adeno 07 ca (giảm 02 ca); Lỵ trực trùng 01 ca (giảm 01 ca); Quai bị 04 ca (tương đương cùng kỳ 2021);
Sốt xuất huyết 27 ca (tăng 27 ca); Tay chân miệng 35 ca (tăng 27 ca);Sốt rét 02 ca (tăng 02 ca); Cúm 5.143 ca (tăng 390 ca); Viêm gan Virut khác 64 ca (tăng 44 ca).
Sởi 01 ca (tương đương cùng kỳ 2021);Uốn ván khác 0 ca (giảm 01 ca);Viêm gan Virut B 0 ca (giảm 08 ca); Viêm gan virut C 0ca (giảm 01 ca); Viêm não virut khác 01 ca (giảm 04 ca); Xoắn khuẩn vàng da Leptospira 0 ca (giảm 01 ca); Bệnh do vi rut Adeno 80 ca (giảm 88 ca); Lỵ Amip 23 ca (giảm 07 ca);Lỵ trực trùng 23 ca (giảm 05 ca); Quai bị 22 ca (giảm 88 ca);Thủy đậu 126 ca (giảm 214 ca); Tiêu chảy 1.706 ca (giảm 364 ca).
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh.
Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh