Trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

http://cucthongkelangson.gov.vn


Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2022

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 4/2022 dự ước đạt 1.781,9 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,13% và so với cùng kỳ tăng 10,16%.
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong tháng 4, lượng mưa phân bố đồng đều thuận lợi cho người dân đẩy nhanh tiến độ làm đất và gieo trồng các cây trồng chủ yếu như lúa, ngô..., dự ước đến cuối tháng gieo trồng xong toàn bộ diện tích cây trồng vụ Xuân năm 2022; đối với diện tích đã gieo trồng xong, người dân tập trung chăm sóc đảm bảo cây trồng sinh trưởng phát triển tốt. Ngành chức năng của tỉnh tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh động vật và triển khai tiêm phòng vắc xin cho đàn gia súc, gia cầm; tăng cường công tác thú y thủy sản và phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản; hướng dẫn phòng, chống dịch bệnh cho một số loài thủy sản nước ngọt trong giai đoạn chuyển mùa; bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất vụ Xuân.

1.1. Nông nghiệp
1.1.1 Trồng trọt
- Cây lúa: Diện tích gieo cấy ước đạt 14.198 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong vụ Xuân 2022, các giống lúa được người dân gieo cấy chủ yếu là các giống lúa ngắn ngày và lúa lai, có ưu thế về năng suất, chất lượng. Dự ước đến hết tháng 4 sẽ cấy xong toàn bộ diện tích lúa Xuân năm 2022.
- Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước đạt 7.228 ha, tăng 0,28% so với cùng kỳ năm trước. Ngô được trồng chủ yếu ở các huyện: Bắc Sơn, Hữu Lũng, Cao Lộc. Giống cây trồng chủ yếu là NK66, NK54 là những giống ngô phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng của địa phương. Đến nay, diện tích ngô Xuân phát triển tốt, bà con nông dân đang tích cực bón phân lần 1 và vun đất cho ngô.
- Cây lạc: Diện tích gieo trồng ư­­ớc thực hiện 1.250,12 ha, tăng 0,04% so với cùng kỳ năm trước, do bà con lựa chọn được giống lạc siêu củ phù hợp với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng, có thị trường tiêu thụ tốt mang lại hiệu quả kinh tế cao, giá lạc luôn giữ ở mức 20.000 - 22.000 đồng/kg lạc củ tươi.
- Rau các loại: Diện tích gieo trồng ư­­ớc thực hiện 807,65 ha, tăng 0,16% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, diện tích trồng rau theo hướng an toàn ngày càng được người dân mở rộng, trong tháng các loại rau trồng chính là đậu cove, dưa chuột, rau bí..., tại một số hộ ở các huyện: Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng người dân đã đưa các loại rau rừng về trồng như rau bò khai, rau ngót rừng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.1.2 Chăn nuôi
- Tổng đàn trâu: Đàn trâu có giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu sử dụng sức kéo giảm, người dân đã bán trâu đầu tư cho trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ước tính số con trâu có 70.006 con, giảm 1,48%. Số trâu xuất chuồng 2.012 con, giảm 6,33% (-136 con) so với cùng kỳ. Sản lượng xuất chuồng đạt 473,5 tấn.
- Tổng đàn bò: Chăn nuôi bò thịt theo hướng nhốt chuồng, vỗ béo đang được người chăn nuôi thực hiện có hiệu quả, theo định hướng phát triển và hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Ước tính số con bò có 33.558 con, giảm 0,14% so với cùng kỳ năm trước. Số con bò xuất chuồng là 668 con, tương đương với sản lượng thịt hơi xuất chuồng 121,72 tấn, tăng 1,32% so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn lợn: Sau khi dịch tả lợn châu Phi đã được kiểm soát, người dân đẩy mạnh tái đàn, nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh đã đầu tư chăn nuôi lợn với quy mô lớn. Số con hiện có ước 123.328 con, tăng 9,24% so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng ước 25.762 con, tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng hơi xuất chuồng đạt 1.932,15 tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn gia cầm: Tổng đàn gia cầm tăng do người dân tăng đàn gia cầm và bắt đầu chu kỳ nuôi năm 2022. Giá bán gia cầm ổn định. Ước tổng đàn gia cầm hiện có 5.219,86 nghìn con, tăng 1,94% so với cùng kỳ (trong đó, tổng đàn gà là 4.466,5 nghìn con, giảm 0,92% so với cùng kỳ). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia cầm đạt 1.108 tấn (trong đó, sản lượng gà hơi đạt 886,26 tấn). Sản lượng trứng gia cầm đạt 4.818,24 nghìn quả (trong đó, số lượng trứng gà đạt 4.218 nghìn quả). Giá trứng gà ta hiện nay được giá cùng với thị trường tiêu thụ ổn định nên người dân nuôi gà đẻ trứng nhiều, đặc biệt là giống gà siêu trứng cho sản lượng trứng cao.
Trong tháng đàn gia cầm phát triển ổn định. Ngành chức năng đã tổ chức tiêm phòng được 131.048 lượt con, lũy kế từ đầu năm tiêm được 430.476 lượt con, đạt 107% so với cùng kỳ.
1.2. Lâm nghiệp
Trồng rừng tập trung được 1.325,23 ha, tăng 1,54% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích trồng rừng sản xuất tăng do hiệu quả kinh tế mang lại cao, khi thời tiết có mưa, độ ẩm thích hợp người dân tập trung trồng rừng. Trồng cây phân tán được 458,4 nghìn cây (tương đương 229,2 ha), tăng 1,73% so với cùng kỳ.
Công tác quản lý giống cây lâm nghiệp tiếp tục được thực hiện, thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng tại vườn ươm và ngoài hiện trường, cơ bản nguồn cây giống phục vụ chương trình trồng rừng theo chỉ tiêu được giao và xuất bán ra thị trường các tỉnh lân cận đảm bảo chất lượng. Trong tháng trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng.
1.3. Thủy sản
Hoạt động thủy sản trong tháng chủ yếu là khai thác tận thu các ao, hồ đang nuôi thả; người dân tập trung chăm sóc đàn cá đã thả theo đúng quy trình kỹ thuật. Tiếp tục chăm sóc, nuôi vỗ đàn cá bố mẹ theo đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo cá phát triển tốt, tỷ lệ thành thục cao, phục vụ tốt quy trình sinh sản nhân tạo.
2. Sản xuất công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4/2022
2.1.1. So với tháng trước
Tháng 4, thời tiết hanh khô thuận lợi cho ngành công nghiệp khai thác đá và chế biến, chế tạo; khai thác cung cấp nước, thủy điện gặp khó khăn do thiếu nguồn nước. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4 tăng 2,9% so với tháng trước. Cụ thể, ngành công nghiệp khai khoáng giảm 5,29%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,77%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 8,82%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 0,76%.
Ngành công nghiệp khai khoáng, ngành khai thác than cứng và than non (sản phẩm than) giảm 17,08%; khai khoáng khác (sản phẩm đá xây dựng khác) tăng 10,47%  nguyên nhân chủ yếu do thời tiết tháng 3 nồm ẩm, mưa nhiều sang tháng 4 thời tiết khô ráo hơn, nắng ấm thuận lợi hơn cho hoạt động khai thác ngoài trời.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo được đánh giá diễn ra khá sôi động, nhất là khu vực công nghiệp cá thể và tập trung ở lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm như xay sát, giết mổ gia súc, sản xuất cao khô,...do nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh và tiêu thụ ở các tỉnh miền xuôi, chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng 15,91% so với tháng trước; in và sao chép bản ghi tăng 13,64% do các công ty in ấn trên địa bàn tỉnh mở rộng quy mô, đặc biệt là các bản in khổ lớn; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 20,91%, chủ yếu tăng ở sản phẩm bóng thể thao (tăng 22,22%) và sản phẩm bật lửa ga (tăng 24,17%). Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Clanhke xi măng và xi măng Portland den tăng cao so với tháng trước do sau thời gian dừng lò để bảo dưỡng, sang tháng 4 hoạt động trở lại bình thường.
Ngành sản xuất và phân phối điện có chỉ số giảm trong đó sản lượng điện sản xuất giảm 10,1%, dẫn đến hoạt động khai thác than giảm 17,08% do Nhà máy nhiệt điện Na Dương sản xuất theo lệnh điều độ của Tổng Công ty Than Việt Nam-TKV; điện thương phẩm tăng 1,07% so với tháng trước do vào đầu tháng hè nhu cầu sử dụng điện cao hơn.
Ngành xử lý và cung cấp nước đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu nước sinh hoạt của dân cư; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải chỉ tăng 1,61% so với tháng trước.
2.1.2. So với cùng kỳ
So với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp tháng 4 năm 2022 tăng 11,98%. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 7,62%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,11%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 11,36%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 6,94%.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng, hoạt động khai thác than giảm 5,88% so với cùng kỳ; hoạt động khai thác đá tăng 25,74% so với cùng kỳ do các điểm mỏ khai thác khoáng sản tập trung vào khai thác, chế biến sâu các loại khoáng sản, nâng cấp đồng bộ máy móc tạo giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng thông thường và sản xuất xi măng tại mỏ đá vôi Đồng Bành, mỏ đá vôi Ba Nàng, đá xẻ Bó Cáng,….
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với chỉ số tăng 14,11% so với cùng kỳ, trong đó hoạt động chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ có chỉ số sản xuất tăng 25,11%, với lợi thế kinh tế đồi rừng phát triển, nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương, các cơ sở kinh doanh cá thể hoạt động chế biến ván bóc tăng cao, dự ước doanh thu trong tháng 4/2022 đạt 25,42 tỷ đồng. Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan so với cùng kỳ tăng 20,48%, đơn hàng gia công sản phẩm cho các doanh nghiệp trong nước tăng. Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 45,76%, tăng chủ yếu các sản phẩm gia công cơ khí như hoạt động hàn xì, sản xuất cửa hoa, cửa sắt trong dân cư với doanh thu từ các cơ sở cá thể trong tháng ước đạt 23,64 tỷ đồng. Sản xuất đồ uống tăng 16,86% trong đó tăng cao ở sản phẩm rượu có độ cồn từ 25 độ trở lên, một số doanh nghiệp lớn sản xuất trong ngành này ký kết được đơn hàng tiêu thụ ổn định, các nhà hàng, các quán ăn đã mở cửa trở lại dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tăng. Sản phẩm in, sao chép các loại bản ghi tăng trên 100% do cùng kỳ năm 2021 các doanh nghiệp vừa chống dịch vừa sản xuất khiến chi phí tăng cao, tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên vật liệu đầu vào vật tư chính như giấy. Sản phẩm muối công nghiệp tăng trên 200% do nhu cầu nhập khẩu từ phía đối tác Trung Quốc tăng cao.
Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động dựa theo đơn đặt hàng, cụ thể: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic, sản phẩm kim loại….
Ngành công nghiệp điện, sự tăng, giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 4/2022 tăng 14,08%; điện thương phẩm giảm 3,73% so với cùng kỳ.
So với cùng kỳ năm trước, ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 3,75%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 10,34%. 
2.2. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 4/2022 tăng 1,19% so với tháng trước và giảm 3,25% so với cùng kỳ. So với cùng kỳ ngành khai khoáng chỉ số sử dụng lao động giảm 1,50%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,42%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,18%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 12,03%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2022, chỉ số sử dụng lao động giảm 4,55% so với cùng kỳ năm trước.
3. Đầu tư, xây dựng
Các chương trình, dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh thường xuyên được Ủy ban nhân dân tỉnh quan tâm, kiểm tra, xem xét tháo gỡ các khó khăn vướng mắc và chỉ đạo, đôn đốc chủ đầu tư thực hiện các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện của các dự án, như: Đường đến Trung tâm xã Tân Yên huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn; cải tạo nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700-km18); công trình cải tạo nâng cấp đường Hoa Thám - Quý Hoà - Vĩnh Yên và công trình cấp nước xã Tân Văn, huyện Bình Gia (thuộc dự án hạ tầng phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn); Dự án thành phần đường Khuổi Lào - Yên Lỗ, huyện Bình Gia; Sửa chữa và nâng cao an toàn đập (WB8)... Đối với 23 dự án trọng điểm của tỉnh năm 2022, trong tháng 3/2022 có 12 dự án chưa triển khai được công tác thu hồi đất, bồi thường, GPMB, trong đó: 06 dự án còn vướng mắc và 06 dự án mới có danh mục là dự án trọng điểm cuối tháng 02 nên chưa triển khai thực hiện.
Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 4/2022 thực hiện được 171,7 tỷ đồng, đạt 6,87% so với kế hoạch năm 2022, giảm 12,13% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 109,4 tỷ đồng, giảm 12,65%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 62,3 tỷ đồng, giảm 11,18%.
 Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh 4 tháng đầu năm 2022 ước thực hiện 571,2 tỷ đồng, đạt 22,86% kế hoạch năm, giảm 10,08% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 342,6 tỷ đồng, giảm 10,62%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 228,6 tỷ đồng, giảm 9,26%.
* Tiến độ thực hiện một số dự án trên địa bàn tỉnh:
- Dự án cải tạo, nâng cấp đường lên Khu du lịch Mẫu Sơn, giai đoạn 2 (đoạn km6 - km12) huyện Lộc Bình có tổng mức đầu tư 116,94 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 4/2022 ước thực hiện được 107,7 tỷ đồng, đạt 92,10% so với kế hoạch.
- Dự án Đường đến trung tâm xã Tân Yên (huyện Tràng Định) có tổng mức đầu tư 432,1 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 4/2022 ước thực hiện được 367,3 tỷ đồng, đạt 85,01% so với kế hoạch.
- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 4/2022 ước thực hiện được 454,7 tỷ đồng, đạt 46% kế hoạch.
- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần), công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 04/2022 ước thực hiện được 423,4 tỷ đồng, đạt 30,73% kế hoạch.
4. Tài chính, ngân hàng 
4.1. Tài chính[1]
- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện tháng 4 năm 2022 là 280,23 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa là 180,15 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 100 tỷ đồng. Lũy kế ước thực hiện 4 tháng năm 2022 là 2.268,76 tỷ đồng, đạt 29,3% so với dự toán Trung ương giao, đạt 28,9% so với dự toán tỉnh giao, bằng 65,5% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Thu nội địa là 768,37 tỷ đồng, đạt 34,2% so với dự toán Trung ương giao, đạt 32,7% dự toán tỉnh giao, bằng 75,7% so với cùng kỳ năm 2021. Thu nội địa không bao gồm thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết, thu phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu là 561,87 tỷ đồng, đạt 38,7% so với dự toán tỉnh giao, bằng 94,8% so với cùng kỳ năm 2021; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 1.498,64 tỷ đồng, đạt 27,2% so với dự toán giao, bằng 61,2 % so với cùng kỳ năm 2021.
Ước thu nội địa 4 tháng năm 2022 giảm so với cùng kỳ nguyên nhân do tiếp tục triển khai các văn bản của Trung ương quy định miễn, giảm phí, lệ phí, lệ phí trước bạ và thuế giá trị gia tăng cho nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 phần nào ảnh hưởng đến số thu NSNN trên địa bàn. Ngoài ra một số khoản thu chính của tỉnh đều chưa đạt tiến độ dự toán, giảm mạnh so với cùng kỳ: thu phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, phía Trung Quốc tăng cường các biện pháp chống dịch, hạn chế  hoạt động xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu dẫn đến năng lực thông quan giảm.  Mặc dù thu nội địa tháng 4 giảm so với cùng kỳ nhưng cơ bản đạt tiến độ dự toán giao, tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ ổn định trở lại, giá cả được kiểm soát, thị trường bình ổn trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt với dịch bệnh Covid-19.
- Về chi ngân sách địa phương
Chi ngân sách địa phương được cơ cấu lại để tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, dành nguồn chi trả nợ và kiểm soát nợ công ngay trong dự toán giao đầu năm. Tăng cường công tác quản lý, điều hành, bình ổn giá trên địa bàn, chủ động thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu.
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện tháng 4 năm 2022 là 781,7 tỷ đồng, lũy kế tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 4 tháng đầu năm 2022 là 2.596,4 tỷ đồng, đạt 23,6% dự toán giao đầu năm, bằng 92,3% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Chi trong cân đối ngân sách địa phương là 2.413,4 tỷ đồng, đạt 25% dự toán giao đầu năm và bằng 97,1% so cùng kỳ năm 2021, trong chi cân đối ngân sách: Chi đầu tư phát triển là 280 tỷ đồng, đạt 22,1% dự toán, bằng 71,9% so với cùng kỳ năm 2021; Chi thường xuyên là 2.097 tỷ đồng, đạt 25,9% dự toán, bằng 100,6% so với cùng kỳ năm 2021. Chi các chương trình mục tiêu và một số nhiệm vụ khác là 183 tỷ triệu đồng đạt 13,9% dự toán, bằng 55,9% so với cùng kỳ năm 2021.

4.2. Ngân hàng[2]
Chính sách điều hành tín dụng trên địa bàn được thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế. Khả năng thanh khoản của các ngân hàng được đảm bảo, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế và chi trả cho khách hàng, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ước thực hiện đến 30/4/2022: Tổng huy động vốn ước đạt 33.910 tỷ đồng, tăng 1,39% so với 31/12/2021. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 37.550 tỷ đồng, tăng 0,02% so với 31/12/2021.
5. Thương mại và dịch vụ
Phía Trung Quốc tiếp tục duy trì thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 theo phương châm Zerocovid; hiện nay trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chỉ còn duy trì thông quan hàng hoá tại 3 cửa khẩu, lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu hàng ngày được thông quan chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.  Tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn từ 13/3/2022 đến ngày 12/4/2022 đạt trên 578,6 triệu USD. Kim ngạch hàng hoá XNK mở tở khai tại tỉnh Lạng Sơn đạt 83,1 triệu USD. Trong đó xuất khẩu đạt 30,2 triệu USD; hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là hoa quả, ván bóc, quặng sắt, đồ gỗ mỹ nghệ, thuỷ sản; nhập khẩu đạt 52,9 triệu USD; hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị , phương tiện vận tải, linh kiện ô tô, điện tử... Luỹ kế từ đầu năm kim ngạch XNK qua địa bàn đạt 4.378 triệu USD, trong đó riêng kim ngạch XNK mở tờ khai tại tỉnh là 518,3 triệu USD (nhập khẩu: 414,9 USD; xuất khẩu: 103,4 triệu USD), giảm 54,77% so với cùng kỳ 2021.
Sang đến tháng 4/2022, diễn biễn tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước cơ bản đã được kiểm soát, hầu hết các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Lạng sơn đến nay đã hoạt động ổn định.
5.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 4/2022 dự ước đạt 1.781,9 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,13% và so với cùng kỳ tăng 10,16%.Các nhóm hàng hóa tháng 4/2022 tăng so với tháng trước, cụ thể: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 2,04%; nhóm đồ dùng dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 3,12%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 6,04%; nhóm xăng dầu tăng 2,58% và nhiên liệu khác tăng 2,78%. Các nhóm hàng hóa trên tăng là do: Trong tháng 4 có tiết Thanh minh và Tết Thanh minh (03/3 Nhâm Dần) nhu cầu mua sắm đồ lễ của nhóm lương thực, thực phẩm tăng cao; nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình tăng chủ yếu ở các mặt hàng điện lạnh như : Quạt, điều hoà, tủ lạnh...,chủ yếu là những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày khi thời tiết bắt đầu chuyển sang mùa hè nóng bức, ngoài ra nhóm gỗ và vật liệu xây dựng trong tháng cũng tăng khá, do sang quý II vào mùa xây dựng hầu hết những mặt hàng vật liệu xây dựng được tiêu thụ mạnh, đảm bảo nguồn cung ứng vật liệu cho các nhà thầu thi công công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh. Các nhóm hàng hóa giảm, gồm: Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) giảm 3,74%; hàng may mặc giảm 1,7%; vật phẩm văn hóa, giáo dục giảm 1,74%; đá quý, kim loại quý giảm 6,01%; hàng hóa khác giảm 6,83% so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trên địa bàn giảm.
Dự ước 4 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 7.079,2 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,32%. Tăng chủ yếu ở các nhóm hàng hóa sau: Xăng, dầu các loại tăng 11,89%; nhiên liệu khác tăng 13,22% do giá xăng, dầu trên thế giới điều chỉnh tăng; lương thực, thực phẩm tăng 12,61%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,63% do giá nguyên liệu đầu vào tăng; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 10,06% do nhu cầu mua sắm phục vụ đi lại của nhân dân tăng cao;…
5.2. Dịch vụ
5.2.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Doanh thu du lịch lữ hành tháng 4/2022 dự ước đạt gần 1 tỷ đồng, tăng 6,24% so với tháng trước, dự ước 4 tháng đầu năm doanh thu dịch vụ lữ hành tăng 1,53% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, hoạt động du lịch nước ngoài đã hoạt động trở lại nhưng số lượng khách đi tour nước ngoài vẫn còn hạn chế do tâm lý e ngại của du khách vì dịch Covid -19, chủ yếu là hoạt động du lịch trong nước, một số công ty lữ hành đang áp dụng nhiều chương trình ưu đãi đối với những gói tour du lịch trong nước để kích cầu khách trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5. Đặc biệt trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn diễn ra lễ hội “Kỳ Hoa – Lạng Sơn 2022” lễ hội diễn ra nhằm tạo ra sự sôi động, kích cầu du lịch trên địa bàn Lạng Sơn, nhằm thu hút đông đảo du khách từ mọi miền trên khắp đất nước đến tụ hội, giao lưu và thưởng thức những nét văn hoá đặc sắc cũng như ẩm thực và các sản phẩm nổi tiếng của Xứ Lạng.
Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 4/2022 ước tính doanh thu đạt 167,2 tỷ đồng, tăng 4,36% so với tháng trước và tăng 19,79% so với cùng kỳ năm trước (Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 9,6 tỷ đồng, tăng 3,02% so với tháng trước; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 157,6 tỷ đồng, tăng 4,44% so với tháng trước). Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng cao hơn so với tháng trước do trong tháng 4/2022 có các ngày lễ: Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch), ngày Giải phóng miền Nam 30/4 và ngày Quốc tế Lao động 1/5 nên nhu cầu về dịch vụ du lịch, ăn uống, lưu trú của khách địa phương và khách thập phương sẽ tăng hơn. Dự ước 4 tháng đầu năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 685,4 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 17,47%.
5.2.2. Doanh thu dịch vụ khác
Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 4/2022 ước đạt 43,5 tỷ đồng, tăng 2,55% so với tháng trước và tăng 5,74% so cùng kỳ. Trong đó, một số nhóm dịch vụ tăng so với tháng trước, cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 3,67%; nhóm dịch vụ giáo dục, đào tạo tăng 2,03%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 6,67%; nhóm dịch vụ khác tăng 2,47%. Hầu hết các nhóm dịch vụ trong tháng tăng hơn so với cùng kỳ do trong tháng 4 một số dịch vụ, vui chơi giải trí đã được hoạt động trở lại bình thường, còn lại các nhóm ngành dịch vụ khác tăng ở mức bình thường, đáp ứng được nhu cầu dịch vụ của nhân dân.
5.3. Vận tải
Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch Covid-19, hoạt động vận tải tỉnh Lạng Sơn tiếp tục được duy trì ổn định. Tại các cửa khẩu, ngành chức năng của tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tổ chức thực hiện theo phương thức giao nhận hàng hóa mới qua các cửa khẩu; lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo các đơn vị có liên quan chủ động hội đàm với phía Trung Quốc triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy năng lực thông quan và thực hiện phương thức giao nhận hàng hóa đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc. Tuy nhiên, do phía Trung Quốc vẫn tăng cường công tác phòng chống dịch Covid-19 nên năng lực thông quan và việc triển khai thực hiện phương thức giao nhận hàng hóa mới chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng lớn đến hoạt động vận tải, kho bãi trên địa bàn tỉnh.
Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 4/2022 ước đạt 145,4 tỷ đồng, tăng 7,51% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hành khách đạt 20,7 tỷ đồng, tăng 19,95% (vận chuyển hành khách tăng 55,4%; luân chuyển hành khách tăng 17,84%) so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 88,2 tỷ đồng, tăng 7,2% (hàng hoá vận chuyển tăng 94,4%; hàng hoá luân chuyển tăng 10,04%) so với cùng kỳ.  Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 36,2 tỷ đồng, tăng 2,2%; hoạt động bưu chính, chuyển phát tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cộng dồn 4 tháng năm 2022, tổng doanh thu toàn ngành vận tải ước đạt 592.4 tỷ đồng, tăng 9,06% so với cùng kỳ. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 81,4 tỷ đồng, tăng 7,78% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 369,1 tỷ đồng, tăng 8,84% so với cùng kỳ.
6. Chỉ số giá
Trong tháng 4, tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát, số ca mắc Covid-19 giảm nhiều. Các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của nhân dân ổn định; không có hiện tượng tăng giá đột biến hay khan hiếm hàng hoá.
6.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 4/2022 giảm 0,66% so với tháng trước, giảm 0,21% so với cùng kỳ năm trước:
Trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 5 nhóm hàng giảm, 4 nhóm hàng tăng và 2 nhóm hàng không thay đổi so với tháng trước. Các nhóm hàng hóa chủ yếu có chỉ số giá giảm so với tháng trước gồm:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,79%: Chủ yếu giảm ở mặt hàng thực phẩm, so với tháng trước giảm 1,14%. Trong đó, giá thịt gia súc giảm 1,2%, giá thịt lợn giảm kéo theo giá dầu mỡ ăn giảm 4,71%, giá thịt gia cầm giảm 0,14%, giá rau tươi giảm 4,07%. Nguyên nhân do nguồn cung dồi dào. Nhóm lương thực tăng 0,2%: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng chủ yếu ở mặt hàng gạo (tăng 0,29%) do sản lượng gạo chủ yếu từ vụ mùa hiện tại không dồi dào như trước. Tuy nhiên mức tăng không ảnh hưởng lớn đến cả nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống. Ăn uống ngoài gia đình không thay đổi: Trong tháng 4, do tình hình dịch bệnh được kiểm soát, người dân yên tâm đi ăn uống.
- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,38%:  Chỉ số giá của một số mặt hàng trong nhóm có sự biến động tăng, giảm cụ thể như sau: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 3,1% do giá thép tăng cao, nguyên nhân giá phôi thép, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, chi phí vận chuyển tăng dẫn đến giá thành sản xuất của các công ty tăng theo. Giá điện sinh hoạt giảm 4,65%, do nhu cầu sử dụng điện của người dân giảm và do Công ty Điện lực áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% theo công văn số 604/EVN-TCKT ngày 09/02/2022 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Giá gas tăng 2,94% so với tháng trước, nguyên nhân do giá giao dịch gas thế giới ở mức 950 USD/tấn, tăng 422,5 USD/tấn so với tháng 3/2022 kéo giá gas bán lẻ trong nước tăng 14.000đ/bình. Giá dầu hỏa tăng 7,29%, do trong kỳ liên Bộ Công Thương – Tài chính điều chỉnh giá theo diễn biến giá dầu của thế giới.
- Nhóm giao thông giảm 2,42%: Chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 2% so với tháng trước: Do trong tháng đã có 3 lần điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào các ngày 01/4, 11/4 và  21/4, cụ thể:  Ngày 01/4, giá xăng A95 III là 28.710đ/lít (giảm 693đ/lít so với tháng trước); giá dầu Diezen là 25.580đ/lít (tăng 1.802đ/lít so với tháng trước). Trước những diễn biến về giá thành phẩm xăng, dầu thế giới trong thời gian gần đây và thực hiện điều hành giá xăng, dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; Bộ Công Thương và Bộ Tài chính quyết định về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng E5RON92 ở mức 250 đồng/lít, xăng RON95 ở mức 250 đồng/lít, dầu diesel ở mức 100 đồng/lít.  Ngày 11/4, giá xăng A95 III là 27.850đ/lít (giảm thêm 860đ/lít so với kỳ ngày 01/4); giá dầu Diezen là 24.860đ/lít (giảm 720đ/lít so với kỳ ngày 01/4). Về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tiếp tục thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng E5RON92 ở mức 1.000 đồng/lít, xăng RON95 ở mức 650 đồng/lít, dầu diesel ở mức 500 đồng/lít, dầu hỏa ở mức 350 đồng/lít. Ngày 21/4, giá xăng A95III là 28.540đ/lít (tăng 690đ/lít so với kỳ ngày 11/4); giá dầu Diezen là 25.850đ/lít (tăng 990đ/lít so với kỳ ngày 11/4). Về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tiếp tục thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng E5RON92 ở mức 400 đồng/lít, xăng RON95 ở mức 500 đồng/lít, dầu diesel ở mức 100 đồng/lít, dầu hỏa ở mức 100 đồng/lít..
* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4  năm 2022 so với cùng kỳ năm trước
CPI chung toàn tỉnh tháng 4/2022 giảm 0,21% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của các nhóm hàng sau: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm  6,53%; Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,23%.
6.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
- Chỉ số giá vàng: Trong tháng 4/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá tăng, giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 0,18%, so với cùng kỳ năm trước tăng 6,31%, so với năm gốc năm 2019 tăng 41,22%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 1,85% so với bình quân cùng kỳ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ: So với tháng trước tăng 0,87%, so với cùng kỳ năm trước giảm 5,31%, so với năm gốc năm 2019 giảm 0,34%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 2,47% so với bình quân cùng kỳ.
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[3]
Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách pháp luật lao động cho 706 lượt người, lũy kế từ đầu năm 5.315 lượt người; số người đăng ký tìm việc làm: 85 người; số người được giới thiệu việc làm: 85 người, số người nhận được việc làm là 67 người, lũy kế từ đầu năm 284 người. Số người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp 452 người, 285 người có quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểmthất nghiệp hàng tháng với tổng số tiền chi trả trợ cấp là 5,2 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm là 13 tỷ đồng.
Hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh là 114,7 đồng. Trong đó: Hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg là 43,5 tỷ đồng (Chi trả trực tiếp cho người lao động và người sử dụng lao động là 34 tỷ đồng; Hỗ trợ tạm dừng đóng, điều chỉnh giảm mức đóng bảo hiểm từ Bảo hiểm xã hội tỉnh và cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất từ CN Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh là 9,5 tỷ đồng). Hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP, Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg là 71,2 tỷ đồng (Giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho 1.189 đơn vị với 19.547 người lao động, số tiền giảm đóng là 6,6 tỷ đồng. Chi trả trực tiếp cho người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là 64,5 tỷ đồng với 26.704 người lao động). 
Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 3.785 người có công và thân nhân với kinh phí 7,5 tỷ đồng triệu đồng. Lũy kế chi trả: 15.276 lượt người, kinh phí: 29,7 tỷ triệu đồng. Tiếp nhận, giải quyết 121 hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến. Lũy kế tiếp nhận và giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân: 373 hồ sơ.
7.2. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[4]
Các hoạt động, chương trình y tế được tiếp tục triển khai ngay từ đầu năm, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong tháng, tiếp tục kiểm soát tốt các bệnh truyền nhiễm gây dịch; thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn thực phẩm.
7.2.1. Công tác y tế dự phòng
* Công tác phòng chống dịch Covid-19 tính đến 15h00 ngày 24/4/2022
Các đơn vị y tế đảm bảo “4 tại chỗ” chủ động đáp ứng các cấp độ dịch có thể xảy ra. Tăng cường công tác quản lý điều trị bệnh nhân Covid-19 tại nhà. Xây dựng Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ đủ 5 đến dưới 12 tuổi trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2022 (từ ngày 23/4/2022, Trung tâm Y tế thành phố Lạng Sơn tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5-11 tuổi, đối tượng tiêm đợt này là học sinh các trường trung học cơ sở và tiểu học trên địa bàn thành phố Lạng Sơn); triển khai đợt tiêm mũi 2 thử nghiệm lâm sàng vắc xin S-268019.
Lũy kế từ đầu năm 2021 đến nay: 154.982 F0. Đã khỏi bệnh 153.114 ca; tử vong 97 (Tỉ lệ tử vong trên số ca mắc toàn tỉnh là 0,06%; tỉ lệ tử vong trên toàn quốc là 0,4% so với tổng số ca nhiễm). Hiện còn điều trị 1.771 F0 (100% điều trị tại tỉnh), trong đó: 258 F0 điều trị tại các cơ sở y tế trong tỉnh (14,57%) và 1.513 F0 điều trị tại nhà (85,43%).
Đánh giá cấp độ dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ Y tế (đánh giá ngày 18/4/2022): Quy mô xã: 158/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh”; 31/200 xã: Cấp 2 “Vùng vàng”; 11/200 xã: Cấp 3 “Vùng cam”.  
Tình hình tiêm chủng: Lũy kế tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận: 1.666.738 liều. Lũy kế đến nay đã tiêm: 1.598.592 liều được cấp. Từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,89%; Tỷ lệ tiêm 2 mũi đạt 99,52%;  Tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại đạt 86,47%. Trẻ em từ 12 - 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,5%; Tỷ lệ mũi 2 đạt 95,4%. Trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi: Cộng dồn 10.228 mũi.
* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác
Công tác phòng chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác tiếp tục được kiểm soát; không để dịch lớn xảy ra. Trong tháng có 04 bệnh có số mắc, tử vong tăng và 09 bệnh có số mắc giảm hoặc tương đương so với cùng kỳ[5].
7.2.2. Công tác khám chữa bệnh
Các đơn vị khám, chữa bệnh tổ chức trực 04 cấp, đảm bảo trực 24/24 giờ; đảm bảo cơ số thuốc, dịch truyền, vật tư, hoá chất, hậu cần, bố trí đủ cơ số giường bệnh, phương tiện cấp cứu và cấp cứu ngoại viện để sẵn sàng đáp ứng kịp thời các tình huống có thể xảy ra. Sẵn sàng đảm bảo các điều kiện để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân Covid-19. Kết quả khám và chữa bệnh công lập cả 3 tuyến trong tháng 04: Khám 131.901 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 18.618 lượt; điều trị ngoại trú cho 30.737 lượt. Cộng dồn 04 tháng: Khám 386.005 lượt, đạt 26% kế hoạch năm; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 48.473 lượt, đạt 33% kế hoạch năm; điều trị ngoại trú cho 68.356 lượt, đạt 145% kế hoạch năm. Khám chữa bệnh ngoài công lập: Trong tháng khám được 17.705 lượt, trong đó số khám bảo hiểm y tế 12.372 lượt; Chuyển viện 518 lượt; Tổng số khám sức khỏe 1.254 lượt. Cộng dồn 4 tháng khám được 55.569 lượt, trong đó số khám bảo hiểm y tế 34.919 lượt; Chuyển viện 1.517 lượt; Tổng số khám sức khỏe 3.948 lượt .
7.3. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[6]
Triển khai mở cửa hoạt động kinh doanh dịch vụ Karaoke, vũ trườngtrong điều kiện bình thường mới, đồng thời tăng cường công tác quản lý, đảmbảo yêu cầu phòng chống dịch Covid-19 đối với hoạt động kinh doanh Karaoke,vũ trường trong điều kiện bình thường mới.
- Hoạt động thư viện:Tiếp tục thực hiện tốt nghiệp vụ thư viện. Đưa xe Thư viện lưu động đa phương tiện đi phục vụ tại các điểm trường học, Trại tạm giam tại các huyện: Văn Lãng, Cao Lộc, Văn Quan, Lộc Bình, Bắc Sơn nhân kỷ niệm Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2022.
- Hoạt động điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn: Tuyên truyền phòng, chống dịch Covid-19 đạt 135 buổi đến 119 lượt xã, phục vụ 67.500 lượt người nghe. Thực hiện tốt công tác chiếu phim tại Rạp Đông Kinh sau khi được phép hoạt động trở lại. Tổ chức các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp và quần chúng phục vụ Nhân dân và các nhiệm vụ chính trị .
- Hoạt động bảo tàng: Hoàn thành công tác nghiên cứu, sưu tầm tài liệu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. Xây dựng kế hoạch, đề cương, maket bộ ảnh triển lãm lưu động “Lạng Sơn qua các tài liệu thư tịch cổ và một số hình ảnh trường học, các khoa thi triều Nguyễn” tại các trường học trên địa bàn tỉnh. Mở cửa nhà trưng bày, phòng triển lãm chuyên đề phục vụ 33 lượt khách tham quan.
- Lĩnh vực thể dục, thể thao: Tổ chức thi đấu các môn: Cờ vua, Cờ tướng, Bắn nỏ, Vovinam Đại hội TDTT tỉnh lần thứ IX năm 2022. Chuẩn bị các điều kiện để phối hợp với Tổng cục TDTT đăng cai tổ chức giải Wushu trẻ quốc gia tại Lạng Sơn. Thực hiện tốt công tác đào tạo, huấn luyện vận động viên tham gia các giải thể thao khu vực và toàn quốc. Đảm bảo công tác phòng, chống dịch bệnh cho các vận động viên trong các buổi tập luyệnvà trong sinh hoạt.
7.4. Giáo dục
Hoàn thành việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa năm học 2022-2023. Tổ chức kiểm tra, tư vấn công tác tổ chức ôn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2022. Tổ chức Hội thi giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp THPT; thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 9, 11 năm học 2021-2022 lần 2. Triển khai công tác dạy-học phòng, chống Covid-19 trong tình hình mới. Rà soát, lập danh sách đăng ký tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho học sinh từ 5 - dưới 12 tuổi . Công tác trật tự, an toàn giao thông, phòng chống thiên tai, phòng cháy chữa cháy được đảm bảo.
7.5. Trật tự - An toàn giao thông[7]
Tháng 4 năm 2022, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã xảy ra 4 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 3 người chết, 4 người bị thương. Cộng dồn 4 tháng đầu năm đã xảy ra 9 vụ tai nạn giao thông, làm 9 người chết, làm 5 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước giảm 02 vụ tai nạn (-18,18%), số người chết bằng cùng kỳ, tăng 02 người bị thương. Nguyên nhân tai nạn chủ yếu là do phóng nhanh vượt ẩu của người điều khiển phương tiện đã không làm chủ được tốc độ.
7.6. Môi trường
Trong tháng 04, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện, vì vậy không có vụ vi phạm cần phải xử lý và tiến hành xử phạt. So với tháng 04 năm 2021 cũng không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện. Lũy kế từ đầu năm 2022 có 01 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, xử phạt 70 triệu đồng.
7.7. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng 4, do tình thình thời tiết ấm lên, có mưa nhưng không to và kéo dài nên không có thiệt hại xảy ra. So với tháng 4 năm 2021 không có thiệt hại do thiên tai gây ra.
 

[1] Nguồn: Sở Tài chính.
[2] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn.
[3] Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
[4] Nguồn: Sở Y tế.
    [5] Lỵ Amip 03 ca (tăng 01 ca); Viêm gan Virut khác 02 ca (tăng 02 ca). Tay chân miệng 0 ca (giảm 05 ca); Viêm gan virut B 0 ca (giảm 03 ca); Viêm gan virut C 0 ca (giảm 01 ca); Bệnh do vi rut Adeno 05 ca (giảm 02 ca); Cúm 543 ca (giảm 193 ca); Lỵ trực trùng 04 ca (tương đương 2021); Quai bị 01 ca (giảm 13 ca); Thủy đậu 12 ca (giảm 48 ca); Tiêu chảy 139 ca (giảm 212 ca).
[6] Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh.
     [7] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh.
 

Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây