Trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

http://cucthongkelangson.gov.vn


Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6, quý II và 6 tháng đầu năm 2022

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá 6 tháng đầu năm 2022 đạt 10.717,3 tỷ đồng, tăng 17,48% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các nhóm ngành hàng hóa trong 6 tháng đều tăng so với cùng kỳ.
Tại thời điểm tháng 6/2022, kinh tế toàn cầu trong năm 2022 được dự báo tăng trưởng giảm so với các dự báo đưa ra trước đó. Xung đột giữa Nga và Ukraina cùng với việc phong tỏa tại các thành phố và cảng lớn ở Trung Quốc khi áp dụng chính sách "Zero Covid" đã tạo ra những khó khăn, bất lợi mới, trong khi kinh tế toàn cầu vẫn đang từng bước phục hồi sau đại dịch. Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã duy trì đà phục hồi mạnh mẽ bất chấp tình trạng bất định toàn cầu gia tăng liên quan đến cuộc xung đột kéo dài giữa Nga và Ukraina, giá cả hàng hóa thế giới tăng cao và sự gián đoạn chuỗi cung ứng do tình trạng phong tỏa để kiểm soát dịch Covid-19 tại Trung Quốc. Để có được kết quả này, Việt Nam đã triển khai và đạt được tỷ lệ tiêm chủng cao, giúp cho sự chuyển đổi sang cách tiếp cận ngăn chặn đại dịch linh hoạt hơn. Việc nới lỏng các hạn chế, di chuyển cải thiện và sự phục hồi kinh tế vẫn đang tiếp diễn, được hỗ trợ bởi các chính sách kinh tế vĩ mô và đặc biệt, việc ban hành Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Chính phủ kịp thời và phù hợp để thúc đẩy sự phục hồi kinh tế.
Đối với tỉnh Lạng Sơn, năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, năm bản lề thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2021-2025. Với tinh thần quyết tâm bứt phá, thực hiện đạt và vượt mức các nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch năm 2022 theo tinh thần Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ, tiếp tục xác định phương châm hành động và thực hiện chủ đề năm 2022 “Siết chặt kỷ cương, tăng cường trách nhiệm, quyết liệt hành động, sáng tạo bứt phá”. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch Covid-19, nhất là trong dịp trước, trong và sau Tết. Chủ động thực hiện chiến lược "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19" theo chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương; là tỉnh có độ bao phủ vắc xin nhanh nhất cả nước tại cả 3 lứa tuổi. Qua triển khai thực hiện, lĩnh vực kinh tế, xã hội của tỉnh 6 tháng đầu năm đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn[1] (GRDP) ước tính 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,51% so với cùng kỳ. Trong mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,30%, đóng góp 0,71 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 11,31%, đóng góp 2,57 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,06%, đóng góp 3,06 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,18%, đóng góp 0,16 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
 
GRDP 6 tháng đầu năm giai đoạn 2020 – 2022

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Vụ Đông Xuân 2021 - 2022 mặc dù gặp nhiều khó khăn do đầu vụ thời tiết mưa ít, giữa tháng 5 lại xảy ra mưa lớn gây ra lũ quét, ngập úng ở nhiều nơi, nhưng sản xuất nông nghiệp cơ bản vẫn giữ được ổn định. Cơ cấu cây trồng tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm diện tích cây lương thực, tăng diện tích cây trồng có giá trị kinh tế. Công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được quan tâm, kiểm soát chặt chẽ; nguồn giống, vật tư cơ bản đảm bảo phục vụ sản xuất, tuy nhiên giá các vật tư nông nghiệp tăng so với cùng kỳ. Đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định, trong đó đàn lợn tăng cao so với cùng kỳ do người chăn nuôi tiếp tục đẩy mạnh tái đàn; bệnh dịch tả lợn Châu Phi xảy ra lẻ tẻ và đã được chỉ đạo áp dụng các biện pháp khống chế, giảm thiệt hại cho người chăn nuôi. Đề án phát triển lâm nghiệp bền vững được tập trung chỉ đạo, tiếp tục theo dõi, hỗ trợ chăm sóc mô hình trồng rừng gỗ lớn tại Tràng Định và Lộc Bình. Đẩy mạnh thực hiện đề án OCOP, các sản phẩm tham gia Chương trình không ngừng được hoàn thiện, nâng cấp và có nhiều chuyển biến tích cực về quy mô, chất lượng, quy trình sản xuất, chế biến cũng như mẫu mã bao bì, truy suất nguồn gốc. Kịp thời triển khai công tác ứng phó, khắc phục hậu quả, thăm hỏi động viên gia đình có người thân bị chết, chỉ đạo các địa phương khẩn trương khôi phục sản xuất sau ảnh hưởng của thiên tai.
Khu vực công nghiệp - xây dựng. Sản xuất công nghiệp cơ bản ổn định và có bước tăng trưởng. Thành lập Cụm công nghiệp Bắc Sơn 2; đang thực hiện quy trình xây dựng hạ tầng kỹ thuật và thành lập các Cụm công nghiệp Đình Lập, Na Dương 2, Văn Lãng, Quảng Lạc. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch các cụm công nghiệp để thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Trình Bộ Công Thương xem xét, bổ sung 11 dự án điện gió vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Lĩnh vực đầu tư xây dựng được tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ ngay từ đầu năm. Năm 2022 tập trung bố trí cho các dự án hoàn thành, chuyển tiếp và 22 dự án khởi công mới; chuẩn bị đầu tư 09 dự án để khởi công giai đoạn 2021 – 2025;  hoàn thành nhiều công trình, dự án, góp phần tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước phát huy hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư, cải thiện đời sống Nhân dân. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án phát triển giao thông nông thôn.
Khu vực dịch vụ: Dịch bệnh Covid-19 cơ bản được kiểm soát, các hoạt động thương mại, dịch vụ mở cửa trở lại bình thường, diễn ra sôi động so với cùng kỳ, công tác bình ổn giá được thực hiện tốt, giá cả thị trường được kiểm soát, bảo đảm cung ứng đủ hàng hóa thiết yếu, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán. Mở cửa an toàn, hiệu quả đón khách du lịch quốc tế trên địa bàn tỉnh. Tổ chức thành công Lễ hội Kỳ Hoa tỉnh Lạng Sơn năm 2022. Hoạt động xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, giảm mạnh so với cùng kỳ do phía Trung Quốc tiếp tục kiên trì thực hiện chính sách "Zero-Covid"; các cấp, các ngành đảm bảo công tác phòng chống dịch bệnh, vừa đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu; ban hành và thực hiện Phương án về thiết lập "vùng xanh" đảm bảo phòng, chống dịch Covid-19 phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khu vực các cửa khẩu.


1.2. Cơ cấu kinh tế
Quy mô GRDP 6 tháng đầu năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 18.747 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,82%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 22,86%; khu vực dịch vụ chiếm 51,54%; thuế sản phẩm trừ (-) trợ cấp sản phẩm chiếm 4,78% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2021 là 23,04%; 20,96%; 51,09%; 4,91%).
 
 
2. Tài chính, ngân hàng 
2.1. Tài chính[2]
Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 trong nước diễn biến phức tạp, khả năng phục hồi sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp sau đại dịch còn hạn chế, hoạt động thông thương hàng hóa xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn..., công tác thu, chi ngân sách được điều hành chặt chẽ, tiết kiệm, chủ động ứng phó với dịch bệnh, đảm bảo cân đối thu, chi NSNN, cơ bản đáp ứng nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của tỉnh góp phần bảo đảm ổn định đời sống Nhân dân; an toàn nợ công được giữ vững.
- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn: Ước thực hiện thu NSNN trên địa bàn 6 tháng đầu năm là 3.880,7 tỷ đồng, đạt 49,4% dự toán tỉnh giao, giảm 32,41% so với cùng kỳ, trong đó: Thu nội địa: 1.379 tỷ đồng, đạt 58,7% dự toán tỉnh giao, giảm 4,08% so với cùng kỳ; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 2.500 tỷ đồng, đạt 45,5% dự toán giao, bằng 58,1% so với cùng kỳ; Các khoản huy động, đóng góp: 1.670 triệu đồng.
Trong 6 tháng đầu năm, tình hình dịch Covid-19 tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh trên địa bàn, tuy nhiên thu nội địa vẫn đạt và vượt tiến độ dự toán. Trong đó, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu thực hiện dự toán thu 6 tháng đầu năm đạt 45,5% so với dự toán giao và đạt thấp so với cùng kỳ. Do công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả được tăng cường; các chính sách phát triển cửa khẩu được tập trung triển khai mạnh mẽ để duy trì và tăng hiệu suất thông quan, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của hai bên; tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và thực hiện chính sách giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% đối với phần lớn các hàng hóa nhập khẩu, lộ trình cắt giảm thuế theo Hiệp định thương mại ASEAN - Trung Quốc giai đoạn 2018 - 2022, áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời của Bộ Công Thương, các quy định siết chặt phương thức giao nhận hàng hóa của phía Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh đến số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, do vậy số thu giảm so với cùng kỳ năm 2021.
- Về chi ngân sách địa phương: UBND tỉnh đã điều hành chi ngân sách trong phạm vi dự toán được giao, số chi bổ sung cho các đơn vị khối tỉnh cũng như các huyện, thành phố trong 6 tháng đầu năm giảm so với các năm trước; đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng, phân bổ, giao dự toán đã bố trí ở các lĩnh vực chi. Các đơn vị sử dụng ngân sách và các cấp ngân sách đã nghiêm túc tổ chức triển khai các giải pháp đề ra, thực hiện tuân thủ các quy định về định mức chi thường xuyên trong giai đoạn mới. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 6 tháng đầu năm là 4.255,7 tỷ đồng, đạt 38,7% dự toán tỉnh giao, giảm 1,1% so với cùng kỳ, trong đó: Chi cân đối ngân sách địa phương là 3.922,5 tỷ đồng, đạt 40,6% dự toán tỉnh giao, tăng 1,3% so cùng kỳ; chi Chương trình MTQG, chương trình mục tiêu và nhiệm vụ khác là 333,2 tỷ đồng, đạt 25,2% dự toán tỉnh giao đầu năm, giảm 22,57% so cùng kỳ so với năm 2021.


2.2. Ngân hàng[3]
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tăng cường huy động vốn để đáp ứng vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; quan tâm đầu tư tín dụng với các lĩnh vực ưu tiên; chấp hành nghiêm các quy định về lãi suất, quản lý ngoại hối; chủ động thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu... Hoạt động ngành ngân hàng ổn định và an toàn, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế xã hội địa phương. Ước thực hiện đến ngày 30/6/2022, tổng huy động vốn đạt 34.945 tỷ đồng, tăng 4,5% so với 31/12/2021.
Các ngân hàng trên địa bàn chủ động rà soát, nắm bắt tình hình kinh doanh của khách hàng, áp dụng kịp thời các biện pháp phù hợp nhằm hỗ trợ kịp thời cho khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; tiếp tục chủ động triển khai các giải pháp mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên đặc biệt là cho vay để duy trì và khôi phục các ngành, các lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Dư nợ tín dụng đạt 38.850 tỷ đồng, tăng 3,5% so với 31/12/2021.


3. Chỉ số giá
3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 6/2022
* So với tháng trước: chỉ số giá tiêu dùng chung tăng 0,61% so với tháng trước. Trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 7 nhóm hàng tăng, 3 nhóm hàng giảm và 01 nhóm hàng không thay đổi so với tháng trước. Trong đó biến động của một số nhóm mặt hàng chủ yếu:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,77%: Chủ yếu tăng ở mặt hàng thực phẩm, so với tháng trước tăng 0,98%. Trong đó, giá thịt gia súc tăng 1,32%, giá thịt lợn tăng 1,72% kéo theo giá dầu mỡ ăn tăng 1,26%, giá thịt gia cầm tăng 0,73%, giá rau tươi tăng 0,88%. Nguyên nhân tăng do nhu cầu dịch vụ ăn uống và tiêu dùng của người dân trong tháng tăng cao, các mặt hàng thực phẩm cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn tăng. Nhóm lương thực tăng 0,24%: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng chủ yếu ở mặt hàng lương thực chế biến (tăng 0,99%) do giá nguyên liệu đầu vào, giá cước vận chuyển tăng tác động đến giá các mặt hàng lương thực chế biến khác như giá mỳ sợi, mỳ, bún, phở tăng. Ăn uống ngoài gia đình tăng 0,28%: Trong tháng 6/2022, do thời tiết nắng nóng vào dịp mùa hè, nhu cầu ăn uống và giải khát của người dân tăng so với tháng trước.
- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,28%: Chỉ số giá của một số mặt hàng trong nhóm có sự biến: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,72% do giá thép tăng ở chi phí vận chuyển. Giá điện sinh hoạt giảm 0,43%, do Công ty Điện lực áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% theo công văn số 604/EVN-TCKT ngày 09/02/2022 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Giá gas giảm 5,1% so với tháng trước, nguyên nhân do giá giao dịch gas thế giới ở mức 750 USD/tấn, giảm 105 USD/tấn so với tháng 5/2022 kéo giá gas bán lẻ trong nước giảm 31.000đ/bình. Giá dầu hỏa tăng 10,27%, do trong kỳ liên Bộ Công Thương – Tài chính điều chỉnh giá theo diễn biến giá dầu của thế giới.
- Nhóm giao thông tăng 2,97%: ảnh hưởng chủ yếu bởi chỉ số giá nhóm nhiên liệu tăng 8,21% so với tháng trước: Trong tháng có 3 lần điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào các ngày 01/6, 13/6 và  21/6, cụ thể: Ngày 01/6, giá xăng A95 III là 32.200đ/lít (tăng 940đ/lít so với tháng trước); giá dầu Diezen là 26.910đ/lít (tăng 850đ/lít so với tháng trước). Trước những diễn biến về giá thành phẩm xăng, dầu thế giới trong thời gian gần đây và thực hiện điều hành giá xăng, dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính quyết định về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với dầu hỏa ở mức 100 đồng/lít, dầu diesel ở mức 100đ/lít, dầu mazut ở mức 300 đồng/lít. Ngày 13/6, giá xăng A95 III là 33.010đ/lít (tăng thêm 810đ/lít so với kỳ ngày 01/6); giá dầu Diezen là 27.180đ/lít (tăng 270đ/lít so với kỳ ngày 01/6). Về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tiếp tục thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng E5RON92 ở mức 100 đồng/lít, xăng RON95 ở mức 100 đồng/lít, dầu diesel ở mức 100 đồng/lít. Ngày 21/6, giá xăng A95 III là 33.520đ/lít (tăng 510đ/lít so với kỳ ngày 13/6); giá dầu Diezen là 31.420đ/lít (tăng 4.240đ/lít so với kỳ ngày 13/6). Về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tiếp tục thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng A95 III ở mức 200 đồng/lít, xăng E5 ở mức 100 đồng/lít, dầu hỏa ở mức 400 đồng/lít, dầu diesel ở mức 400 đồng/lít, dầu mazut ở mức 300 đồng/lít.
* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước
CPI chung toàn tỉnh tháng 6/2022 tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,76%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,46%; Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,52%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,6%; Nhóm giao thông tăng 20,58%; Nhóm giáo dục tăng 0,83%; Nhóm văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,25%; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,89%.
Nhóm hàng có chỉ số giá giảm, gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 4,43%, trong đó, nhóm thực phẩm giảm 6,99% do giá thịt lợn giảm sâu so với cùng kỳ năm trước; Bưu chính, viễn thông giảm 0,62%.


3.2. Bình quân 6 tháng năm 2022
CPI chung toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 giảm 0,13% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 6,8%, Bưu chính, viễn thông giảm 0,25%,  Nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 0,25%. Tính từ đầu năm tới nay, trong tổng số 16 kỳ điều hành giá có tới 13 lần giá xăng tăng, chỉ 3 lần giảm. So với đầu năm, giá xăng RON 95 hiện tăng hơn 9.000 đồng/lít; giá xăng E5-RON 92 tăng hơn 8.000 đồng/lít lên mức trên 31.000 đồng/lít, mức cao nhất trong lịch sử. Giá xăng dầu liên tục tăng đã kéo theo giá cước vận tải, tiêu dùng tăng khiến người tiêu dùng phải cân nhắc nhiều hơn trong chi tiêu. Doanh nghiệp cũng vất vả tìm mọi cách để cắt giảm chi phí để giá sản phẩm, dịch vụ không tăng quá cao theo giá xăng dầu. Do ảnh hưởng của tác động giá xăng dầu từ đầu năm, các nhóm ngành còn lại đều có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm 2021.
Biến động giá bán lẻ xăng dầu trong nước
Nguồn: Trang thông tin điện tử Bộ Công thương.

3.3. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng: Trong tháng 6/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá tăng, giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 0,18%, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,92%, so với năm gốc năm 2019 tăng 40,72%. Bình quân 6 tháng năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 2,96% so với bình quân cùng kỳ.
Chỉ số giá đô la Mỹ: So với tháng trước tăng 0,43%, so với cùng kỳ năm trước giảm 0,43%, so với năm gốc năm 2019 tăng 0,52%. Bình quân 6 tháng năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 2,21% so với bình quân cùng kỳ.


4. Đầu tư, xây dựng
Lĩnh vực đầu tư xây dựng được tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ ngay từ đầu năm. Kế hoạch đầu tư công năm 2022 tập trung bố trí cho các dự án hoàn thành, chuyển tiếp và 22 dự án khởi công mới; thực hiện thủ tục chuẩn bị đầu tư 09 dự án để khởi công giai đoạn 2021 - 2025. Đã khởi công 13/22 dự án, các dự án chuyển tiếp triển khai thực hiện theo tiến độ; hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình, dự án thành phần. Các hạng mục thi công một số dự án đạt tiến độ cao, như: Dự án Khu trung chuyển hàng hóa thuộc khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn; dự án Cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng (giai đoạn 2); cải tạo nâng cấp Quốc lộ 4B và công trình xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn.... tiếp tục được triển khai, thi công xây dựng, bàn giao đúng tiến độ, kịp thời theo đề án được duyệt. Tiến độ thực hiện dự án cơ bản theo tiến độ được phê duyệt, một số dự án chậm do thực hiện thủ tục điều chỉnh bổ sung, GPMB,...

4.1. Tình hình vốn đầu tư thực hiện
Tổng vốn đầu tư thực hiện quý II năm 2022 trên địa bàn tỉnh đạt 4.507,5 tỷ đồng, tăng 22,32% so với cùng kỳ. Bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 1.086,9 tỷ đồng, giảm 1,21% so với cùng kỳ; Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngoài Nhà nước đạt 3.387,6 tỷ đồng, tăng 31,94% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 33 tỷ đồng tăng 92,95%, so với cùng kỳ.
6 tháng đầu năm 2022, tổng vốn đầu tư thực hiện ước đạt 8.238,4 tỷ đồng, tăng 19,41% so với cùng kỳ. Gồm: Vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn thực hiện ước đạt 1.815,2 tỷ đồng, tăng 2,83%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngoài Nhà nước ước đạt 6.371,3 tỷ đồng, tăng 24,95%. Trong đó, vốn của các tổ chức, doanh nghiệp ngoài Nhà nước thực hiện đạt 3.467,7 tỷ đồng, vốn đầu tư của khu vực dân cư là 2.695,3 tỷ đồng. Trong hoạt động đầu tư 6 tháng đầu năm, đã thực hiện khởi công dự án quần thể Khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn tại đỉnh Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, thời gian tới góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch Lạng Sơn bứt phá, đồng thời gia tăng công ăn việc làm cho người dân địa phương, đưa ngành du lịch tỉnh Lạng Sơn từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, theo hướng phát triển bền vững. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 51,9 tỷ đồng, tăng 49,52% so với cùng kỳ.


4.2 Tình hình triển khai các dự án đầu tư công trọng điểm
- Dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 4B (đoạn Km3+700 đến Km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 06/2022 ước thực hiện được 504,7 tỷ đồng, đạt 51,06% kế hoạch.  Đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho chuyển mục đích sử dụng 28,34ha đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp để thực hiện Dự án tại Công văn số 480/TTg-NN ngày 30/5/2022; tiếp tục thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, triển khai các công việc để xây dựng Khu tái định cư để bố trí tái định cư cho các hộ dân và di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường dây điện, đường dây viễn thông, mương thủy lợi...) tại huyện Lộc Bình và huyện Cao Lộc; thi công đào, đắp nền đường luỹ kế khối lượng ước đạt 944.000m3; thi công 07/08 công trình cầu trên tuyến (Pắc Cọ 2 Km5+635; Bản Ngà 2 Km10+394; Tồng Lầy 2; Bản Tẳng; Bản Mận 2; Khuổi sát 2, Bản Lìm 2).
- Dự án hạ tầng cơ bản cho phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (nguồn vốn ODA):  Rà soát đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án (bao gồm sử dụng kết dư). Hợp phần 1: 03/04 tiểu dự án giao thông đã hoàn thành giải phóng mặt bằng, thi công xây dựng đạt khối lượng từ 16 đến 76,5% giá trị hợp đồng; 01/04 tiểu dự án giao thông đang giải phóng mặt bằng, cơ bản di chuyển công trình hạ tầng trên tuyến; giá trị khối lượng đạt 56,93% giá trị hợp đồng. Hợp phần 2: Hệ thống cấp nước sinh hoạt liên xã Cường Lợi và thị trấn Nông trường Thái Bình, huyện Đình Lập hoàn thành và tạm bàn giao cho UBND xã Cường Lợi và Công ty Cổ phần cấp thoát nước Lạng Sơn quản lý sử dụng; thực hiện thủ tục điều chỉnh dự án, bổ sung khối lượng tại thôn Đồng Khoang, xã Cường Lợi; Tiểu khu 6, Tiểu khu 3, Tiểu khu 2, thị trấn Nông trường Thái Bình; Hệ thống cấp nước sinh hoạt xã Tân Văn, huyện Bình Gia hoàn thành giải phóng mặt bằng, đang thi công hạng mục nhà trạm xử lý và Trạm bơm cấp 2; khối lượng thực hiện 6 tháng đầu năm: 2,16 tỷ đồng, luỹ kế khối lượng: 3,88/16,4 tỷ đồng, đạt 23,6% khối lượng hợp đồng. Hợp phần 3:Cơ sở hạ tầng phát triển chuỗi giá nông nghiệp triển khai chậm, hoàn thành tổ chức lựa chọn nhà thầu tư vấn lập thiết kế bản vẽ thi công và dự toán công trình hạ tầng công, dự kiến khởi công quý III/2022. Hoàn thiện Sổ tay hướng dẫn cấp vốn, chuẩn bị tài liệu để tổ chức hội nghị để hội thảo tại các huyện tham gia dự án; chuẩn bị các văn bản triển khai các tiêu trí, quy trình hướng dẫn cấp vốn, chuẩn bị tài liệu để tổ chức hội nghị tập huấn; Hướng dẫn các đối tượng tham gia dự án gói vốn cạnh tranh, bổ trợ phát triển cho các Doanh nghiệp và các Nhóm sản xuất (HTX/THT). Hợp phần 4: Nâng cao năng lực quản lý tài sản công, chưa triển khai, sẽ thực hiện sau theo hướng dẫn của Trung ương và nhà tài trợ, công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 06/2022 ước thực hiện được 473,4 tỷ đồng, đạt 34,36% kế hoạch.
- Dự án Nút giao đường cao tốc vào Khu công nghiệp Hữu Lũng: Dự án khởi công mới năm 2022, dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung danh mục dự án sử dụng vốn ngân sách trung ương tại Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 21/02/2022; hoàn thành phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án (Quyết định số 560/QĐ-UBND ngày 30/3/2022 của UBND tỉnh), tổ chức lựa chọn nhà thầu, khởi công trong tháng 6/2022.
- Dự án Khu tái định cư dân cư xã Hồ Sơn, xã Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng: Hoàn thành phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết 1/500 dự án (Quyết định số 538/QĐ-UBND ngày 11/02/2022 của UBND huyện Hữu Lũng); hoàn thành phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi (Quyết định số 781/QĐ-UBND ngày 04/5/2022), đang tổ chức lựa chọn nhà thầu, dự kiến khởi công trong tháng 8/2022.
- Dự án Nâng cấp đoạn Km18-Km80, Quốc lộ 4B, tỉnh Lạng Sơn:  UBND tỉnh đã rà soát, báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về danh mục dự án và mức vốn dự kiến bố trí vốn NSTW thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, vốn ngân sách tỉnh đối ứng theo yêu cầu. Hiện nay, UBND tỉnh đang tiếp tục phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện quy trình trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận giao UBND tỉnh làm cơ quan chủ quản dự án.


5. Tình hình doanh nghiệp
Từ đầu năm đến hết tháng 5/2022, có 203 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 8,15% so với cùng kỳ. Tổng số vốn đăng ký kinh doanh là  3.193 tỷ đồng, tăng 75,09 % so với cùng kỳ. Doanh nghiệp gửi thông báo tạm ngừng hoạt động 173 doanh nghiệp tăng 63,20%, doanh nghiệp thông báo giải thể 44 doanh nghiệp giảm 37,15% so với cùng kỳ.
Xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh cho thấy, đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý II/2022 so với quý trước: 28,13% doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 43,75% doanh nghiệp giữ ổn định; 28,13% số doanh nghiệp cho rằng sản xuất kinh doanh khó khăn hơn. Trong đó, khu vực FDI có 50% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn và 50 % giữ ổn định, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 32,14% đánh giá tốt lên và 42,86 % giữ ổn định, 25% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn quý trước.
Xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh cho thấy xu hướng tổng quan tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quý II/2022 thuận lợi hơn so với quý I/2022. Đánh giá tình hình hoạt động xây dựng quý II/2022 có 38,33% doanh nghiệp đánh giá thuận lợi hơn; 35% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn; 26,67% doanh nghiệp đánh giá tình hình không đổi so với quý trước. Đối với Quý III/2022 đa phần các doanh nghiệp đánh giá tình hình thuận hơn lợi với quý II với nhận định của 41,67% các doanh nghiệp trong mẫu nguyên nhân chủ yếu là từ quý III sẽ bắt đầu tập trung nhiều hơn vào hoạt động xây dựng. Về chi phí hoạt động xây dựng và tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp hoạt động xây dựng, chủ yếu các doanh nghiệp nhận định về chi phí xây dựng tăng cao và số lượng lao động của doanh nghiệp chủ yếu ổn định; trong đó có 45% doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí xây dựng tăng và 53,33% doanh nghiệp không thay đổi số lượng lao động trong quý tiếp theo.


6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sáu tháng đầu năm 2022, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh diễn ra trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp. Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới được tích cực triển khai thực hiện từ đầu năm; sản xuất sản phẩm nông nghiệp dựa trên thế mạnh về nguyên liệu của địa phương, tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm, chú trọng nâng cao hiệu quả liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất góp phần nâng cao đời sống của người dân. Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có xu hướng giảm về số lượng đàn trâu, bò, gà, vịt; đàn ngựa, dê và chăn nuôi khác phát triển tương đối ổn định; tổng đàn lợn tăng cao so với cùng kỳ, người chăn nuôi đẩy mạnh công tác tái đàn.  Về nuôi trồng thủy sản, các mô hình đã mang lại nhiều lợi ích cho người nuôi khi vừa nâng cao chất lượng môi trường nước giúp giảm rủi ro dịch bệnh, đồng thời vừa góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cá thương phẩm cung ứng cho thị trường.

6.1. Nông nghiệp
6.1.1. Cây hằng năm
Thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi cho việc gieo trồng, nhưng trong 02 ngày (09 - 10/5/2022) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra mưa to, lượng mưa lớn kéo dài trên diện rộng, nước trên các sông, suối nhỏ tập trung dồn về, mực nước lên cao gây ngập úng, xảy ra lũ quét, sạt lở đất ở nhiều nơi nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển, cũng như chăm sóc cây trồng, vật nuôi (diện tích lúa và hoa màu các loại bị ngập cục bộ 4.962 ha). Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm vụ Đông Xuân năm 2022 sơ bộ  thực hiện được 47.332 ha, tăng 0,64%.
Tổng sản lượng lương thực có hạt ước thực hiện được 148.806 tấn, tăng 2,14%. Cây lúa diện tích gieo trồng thực hiện 15.598 ha, tăng 3,95%. Diện tích gieo trồng cây lúa tăng do thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi, có mưa lớn đảm bảo lượng nước cho việc tưới tiêu nên người dân đã đẩy nhanh tiến độ cày ải, do đó diện tích gieo trồng tăng hơn so với năm trước. Năng suất lúa ước đạt  51,58 tạ/ha, giảm 0,27%, sản lượng lúa ước đạt 80.451 tấn, tăng 3,66%. Diện tích gieo trồng cây ngô thực hiện 13.314 ha, tăng 0,66%. Cây ngô đang trong giai đoạn phát triển ổn định, đã tiến hành phòng trừ sâu bệnh kịp thời; tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều gây ngập úng, dự ước năng suất đạt 51,34 tạ/ha, giảm 0,25%, sản lượng ngô đạt 68.354 tấn, tăng 0,41%
Cây lấy củ có chất bột diện tích gieo trồng thực hiện 2.489 ha, giảm 2,82%, diện tích giảm chủ yếu ở khoai lang, sắn. Trong đó, cây khoai lang diện tích gieo trồng thực hiện 447 ha, giảm 9,54% do sản phẩm khoai lang chủ yếu tiêu thụ tại địa phương. Năng suất ước đạt 59,21 tạ/ha, tăng 1,24%, sản lượng đạt 2.644 tấn, giảm 8,42%.
Cây thuốc lá diện tích gieo trồng thực hiện được 2.258 ha, tăng 3,39%. Thuốc lá được trồng chủ yếu ở các huyện Bắc Sơn, Hữu Lũng, Chi Lăng, giá bán trên thị trường hai năm trở lại đây giữ mức ổn định, có thương lai đến tận nơi thu mua nên người dân yên tâm mở rộng sản xuất. Năng suất đạt 20,60 tạ/ha, giảm 0,35% do bị ngập úng một số diện tích bị thối cây, lá. Sản lượng đạt 4.651 tấn, tăng 3,03%.
Cây rau, đậu các loại và hoa diện tích gieo trồng thực hiện 6.457 ha, giảm 2,84%. Trong đó, diện tích gieo trồng rau các loại thực hiện 6.047 ha, giảm 2,74%, diện tích giảm chủ yếu ở nhóm cây rau lấy lá và rau lấy quả; năng suất đạt 127,91 tạ/ha, giảm 0,19% so với cùng kỳ, năng suất giảm do trong tháng 5 ảnh hưởng của đợt mưa to, ngập úng. Sản lượng đạt 77.348 tấn, giảm 2,93%.
Tổng diện gieo trồng cây hằng năm khác thực hiện được 5.394 ha, giảm 3,64%; trong đó cây thạch đen trồng tập trung ở huyện Tràng Định và Bình Gia, Văn Lãng, Bắc Sơn diện tích gieo trồng thực hiện được 2.596 ha, tăng 4,61%, do giá bán thạch đen ổn định, sản phẩm thạch đen chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc theo đường chính ngạch nên người dân yên tâm mở rộng diện tích gieo trồng. Năng suất đạt 51,47 tạ/ha, tăng 0,75%, sản lượng đạt 13.359 tấn, tăng 5,39%.


6.1.2. Cây lâu năm
Ước tính diện tích cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2022 đạt 50.407 ha, tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây ăn quả là 17.234 ha, chiếm 34,19% tổng diện tích cây lâu năm, tăng 1,7%; cây chè 463 ha, tăng 0,9%; cây gia vị, dược liệu lâu năm là 31.884 chiếm 63,25% tổng diện tích cây lâu năm, tăng 0,75%. Cây lâu năm khác 780 ha, tăng 2,26% so với cùng kỳ năm trước.
Một số loại cây ăn quả chính: Cây vải 1.600 ha, tăng 2,56%; sản lượng vải đạt 11.461 tấn, tăng 2,73%; cây nhãn diện tích hiện có 1.121 ha, tăng 1,48% so với cùng kỳ; cây thanh long với diện tích hiện có 103 ha, tăng 0,82% so với cùng kỳ và được trồng nhiều ở huyện Hữu Lũng, giống thanh long ruột đỏ thích hợp với điều kiện tự nhiên cho năng suất cao; cây cam 710 ha, giảm 0,34%, cây cam được trồng nhiều ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Tràng Định, giống cam được trồng chủ yếu là cam đường canh, cam Vinh do cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên nên sinh trưởng, phát triển tốt; cây bưởi 1.457 ha, tăng 0,01%, diện tích bưởi tăng nhiều do giá trị kinh tế của quả bưởi đem lại mức thu nhập cao, hiện nay được trồng nhiều ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng... Diện tích cây na là 4.226 ha, tăng 3,97%, trồng chủ yếu ở 02 huyện Chi Lăng và Hữu Lũng do có chất đất phù hợp, cho chất lượng quả ngon. Giá trị kinh tế của quả na đem lại giúp người dân xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu.
* Cây công nghiệp lâu năm
Cây hồi: 31.420 ha, tăng 0,71%. Sản lượng thu hoạch hồi tứ quý trong 6 tháng đầu năm ước đạt 3.577 tấn, tăng 2,92% . Giá bán hồi bình quân khoảng 28.000 - 32.000đ/kg tươi, 130.000 - 135.000đ/kg khô (thấp hơn 25 - 30% so với cùng kỳ năm trước). Diện tích chè: 463 ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích trồng chè búp là chủ yếu với 401 ha, chiếm khoảng 87% trong tổng diện tích chè, tăng 0,57%. Sản lượng ước đạt 1.173 tấn, tăng 3,55% do nhiều cây trồng mới chưa cho sản phẩm.


6.1.3. Chăn nuôi
Ước tổng đàn trâu đạt 63.252 con, giảm 6,29% so với cùng kỳ năm trước. Tổng đàn trâu toàn tỉnh giảm dần do hiệu quả kinh tế không cao, thiếu nhân lực và môi trường chăn, thả bị thu hẹp; đa số diện tích đất canh tác hiện nay đều sử dụng máy móc thay cho sức cày kéo của trâu. Các hộ dân chủ yếu nuôi trâu với mục đích bán thương phẩm. Số trâu xuất chuồng ước 7.318 con, giảm 13,91%, tương đương với sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 1.942 tấn, giảm 13,15% so với cùng kỳ năm trước. Người dân xuất bán nhiều do bán thương phẩm và thiếu nhân lực chăm sóc.
Tổng đàn bò ước đạt 28.233 con, giảm 15,72% so với cùng kỳ năm trước. Tỉnh đã có nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ người dân về nguồn vốn, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương. Nhiều mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt, kết hợp xử lý chất thải làm phân bón hữu cơ rất có hiệu quả. Số bò xuất chuồng ước 2.847 con, tăng 35,57%, tương ứng với sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 621 tấn, tăng 16,87% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tổng đàn lợn 166.532 con, tăng 44,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng đàn lợn thịt: 130.254 con, tăng 47,63%; đàn lợn nái là 16.231 con, tăng 18,04% so với cùng kỳ năm trước, giúp chủ động được nguồn cung con giống cho việc tái đàn. Tình hình bệnh dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh cơ bản được khống chế, các cơ sở chăn nuôi đã chủ động tái đàn và vẫn duy trì thường xuyên công tác tăng đàn và tái đàn, nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học được duy trì và phát triển; công tác kiểm soát dịch bệnh ngày càng chủ động. Số lợn xuất chuồng ước đạt 149.739 con, tăng 5,37%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 12.464 tấn, tăng 5,57% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính tổng đàn gia cầm 4.596 nghìn con, giảm 7,26% do lượng cung thịt lợn cơ bản đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường nên nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm giảm: Ước tổng đàn gà 4.201 nghìn con, giảm 3,26%; trong 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra. Ước tổng đàn vịt 357 nghìn con, giảm 37,94% so với cùng kỳ năm trước. Đàn gia cầm khác: như ngan, chim cút, chim bồ câu trên địa bàn số đầu con đều tăng so với cùng kỳ, một số hộ cũng đã đầu tư vào nuôi với quy mô lớn do nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng, chi phí cho chăn nuôi thấp.


6.2. Lâm nghiệp
Ngay từ đầu năm các cấp chính quyền đã triển khai công tác trồng, chăm sóc rừng, chỉ đạo bà con nhân dân chuẩn bị diện tích đất trồng, lựa chọn cây giống năng suất, chất lượng vào sản xuất mang lại giá trị kinh tế cao như cây keo, bạch đàn, thông … Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng trồng mới đạt 6,61 nghìn ha, tăng 5,71%, trong đó diện tích rừng sản xuất trồng mới ước đạt 6,53 nghìn ha, tăng 5,78%. Trồng rừng trên địa bàn tỉnh tăng do được người dân quan tâm đẩy mạnh trồng rừng trên đất rừng mới khai thác từ năm 2021 và đầu năm 2022. Từ đầu năm 2022 đến nay, thời tiết có mưa thuận lợi cho người dân trồng rừng. Hiện nay, các hộ dân trên địa bàn tiếp tục cuốc hố, chuẩn bị cây giống để trồng rừng năm 2022.
Sản lượng gỗ khai thác 6 tháng đầu năm 2022 đạt 88,17 nghìn m3, tăng 15,16% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là gỗ nhóm 5, 6 và nhóm 7. Sản lượng gỗ khai thác tăng khá do các yếu tố như: Rừng trồng ngày càng được các chủ rừng quan tâm đầu tư giống và chăm sóc tốt, cây rừng phát triển nhanh, rút ngắn chu kỳ sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Rừng 4 - 5 năm đã cho khai thác). Sản phẩm ván bóc đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, không bị ứ đọng, tồn kho nên người dân đã chủ động khai thác sớm để tiếp tục sản xuất kinh doanh trồng rừng mới. Sản lượng củi khai thác và tiêu thụ 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 703,36 nghìn ste, tăng 3,52% so với cùng kỳ năm trước. Khai thác củi tập trung chủ yếu ở khu vực cá thể, được dùng cho mục đích đun nấu phục vụ sinh hoạt gia đình và một phần được tiêu thụ trên thị trường.


6.3. Thủy sản
Phong trào nuôi cá lồng trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục có chiều hướng phát triển, có nhiều hợp tác xã nuôi trồng thủy sản phát triển, vùng nuôi tập trung như hợp tác xã cá lồng Tân Minh (huyện Văn Quan), hợp tác xã thủy sản Hồng Phong và hợp tác xã Tam Hoa (huyện Bắc Sơn). Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn xảy ra đợt mưa lớn ngày 09-10/5/2022 đã gây ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng ở nhiều nơi, gây thiệt hại về người, tài sản và ngành nuôi trồng thủy sản. Các hộ nuôi trồng thủy sản ở huyện Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn, Văn Lãng, Cao Lộc...bị ảnh hưởng, thiệt hại lớn về lồng cá và ao cá. Diện tích nuôi trồng thủy sản đến nay ước 1.285 ha, tăng 0,01% so với cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước 731 tấn, giảm 3,17%. Trong đó, sản lượng cá nuôi trồng là 727 tấn, giảm 3,22% so với cùng kỳ. Sản lượng khai thác thủy sản ước 152 tấn, tăng 2,49%. Trong đó, sản lượng khai thác cá là 99 tấn, tăng 2,90%, ở những huyện có nhiều nguồn sông, suối người dân tranh thủ lúc thời vụ nông nhàn để khai thác, vừa để cải thiện bữa ăn vừa để tăng thêm thu nhập; ngoài ra bà con còn tận dụng lòng hồ thủy điện Thác Xăng (huyện Văn Lãng) đầu tư phương tiện đánh bằng thuyền, bè các loại phục vụ công việc khai thác thủy sản. Sản xuất cá giống ước đạt hơn 9,56 triệu con.

7. Sản xuất công nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm 2022, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có xu hướng phục hồi và tăng trưởng trở lại, do người lao động trong các doanh nghiệp đã được tiêm đủ liều vắc-xin phòng Covid-19 giúp cho các doanh nghiệp khôi phục toàn bộ hoạt động và tìm đơn hàng mới để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu. Tuy nhiên, giá nhiều loại hàng hóa, nguyên, nhiên vật liệu trên thế giới tăng đã tạo áp lực lớn đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp; giá xăng dầu tăng đã tác động làm tăng giá thành sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, gây áp lực lên hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó đã có những tác động làm chậm sự phục hồi của nền kinh tế.

7.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6/2022
7.1.1. So với tháng trước
Trong tháng 6, chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng, với mức tăng 0,4% so với tháng trước. Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,8% so với tháng trước, giảm ở ngành khai thác đá, do trong tháng thời tiết mưa nhiều, một số mỏ đá gặp khó khăn trong quá trình khai thác, vận chuyển. Hoạt động cung ứng điện sản xuất và điện thương phẩm phục vụ nhu cầu sử dụng điện của các cơ sở sản xuất kinh doanh; điện sản xuất dự ước giảm 0,16%, điện thương phẩm tăng 2,25% so với tháng trước. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải, hoạt động khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 2,94%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 0,53% so với tháng trước.
7.1.2. So với cùng kỳ
So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6 năm 2022 tăng 8,72%. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,12%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,47%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 7,20%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 3,89%.
Trong ngành công nghiệp khai khoáng, hoạt động khai thác than giảm 2,34%; hoạt động khai thác đá tăng 11,93% do các điểm mỏ khai thác khoáng sản tập trung vào khai thác, chế biến sâu các loại khoáng sản, nâng cấp đồng bộ máy móc tạo giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng thông thường và sản xuất xi măng tại mỏ đá vôi Đồng Bành, mỏ đá vôi Ba Nàng, đá xẻ Bó Cáng,…
Ngành công nghiệp điện, sự tăng, giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 6/2022 tăng 11,80%; điện thương phẩm giảm 14,11% so với cùng kỳ. So với cùng kỳ năm trước, ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,42%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 2,36%.


7.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý II và 6 tháng đầu  năm 2022 so với cùng kỳ
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp quý II/2022 dự tính tăng 10,15% so với cùng kỳ, với ngành khai khoáng tăng 3,09%; ngành chế biến, chế tạo tăng 14,41%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,71%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 4,67%. Mức tăng chủ yếu của ngành khai khoáng tập trung ở sản phẩm đá xây dựng; ngành chế biến, chế tạo tập trung ở các ngành: Sản xuất xi măng, gạch xây dựng các loại; sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị); sản xuất giường, tủ, bàn, ghế bằng gỗ; đây là những sản phẩm làm nguyên, vật liệu đầu vào cho hoạt động xây dựng.
 

Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 tăng 7,86% so với cùng kỳ năm trước. Ngành khai khoáng tăng 4,70%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,75%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,64%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,53%. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất năm 6 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với năm trước và đóng góp lớn vào mức tăng chung của toàn ngành: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 163,58%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng 44,66%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 46,08%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 35,54%; sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất tăng 36,94%... Các sản phẩm chủ lực của tỉnh: Sản phẩm xi măng Portland đen dự ước giảm 10,76% do áp lực cạnh tranh gia tăng, sản phẩm tiêu thụ chậm, lượng tồn kho lớn. Sản lượng điện sản xuất chiếm tỷ trọng lớn là của Công ty cổ phần nhiệt điện Na Dương phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc, dự ước trong 6 tháng đầu năm 2022 sản lượng điện đạt 439,72 triệu Kwh, tăng 6,43% so với cùng kỳ; sản phẩm than của Công ty Than Na Dương tăng theo nhu cầu sản xuất điện của Công ty cổ phần nhiệt điện Na Dương, sản lượng ước đạt 303,53 nghìn tấn, tăng từ 1,93% so với cùng kỳ.Một trong những nhân tố tác động thúc đẩy IIP một số sản phẩm tăng cao so với cùng kỳ như: Sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và việc triển khai các FTAs  của Việt Nam được thực thi một cách đầy đủ cùng với những cam kết về tạo thuận lợi giảm thiểu các rào cản. Gói phục hồi kinh tế với các chính sách hỗ trợ bao gồm cả thuế, phí sẽ giúp cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 giảm so với năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 46,17%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 43,88%. Theo đánh giá ngành công nghiệp điện tử được dự báo còn đối mặt với nhiều thách thức sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát, trong đó do năng lực sản xuất chưa cao nên có nguy cơ tụt hậu, thiếu lao động lành nghề, chuyển giao công nghệ thấp. Do vậy, trong thời gian tới ngành công nghiệp điện tử cần đẩy mạnh chuyển đổi số, đây được xem là giải pháp quan trọng giúp ngành công nghiệp điện tử vượt qua những khó khăn, thách thức để thích ứng và phát triển trong bối cảnh mới.


7.3. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2022 tăng 0,23% so với cùng kỳ; cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 6/2022 giảm 3,14% so với cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ trong 6 tháng đầu năm 2022 giảm sâu ở một số ngành như sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 55,22%, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 7,26%, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 25,07% do sức cạnh tranh sản phẩm của địa phương chưa cao, một số ngành thiếu nguyên liệu sản xuất. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng  cao như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 233,8%, in, sao chép bản ghi các loại tăng 74,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 36,83%. Những ngành này đều có chỉ số sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tháng 6/2022 giảm 1,63% so với tháng trước và giảm 7,45% so với cùng kỳ. So với cùng kỳ chỉ số tồn kho giảm chủ yếu ở ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, sản xuất đồ uống, sản xuất chế biến thực phẩm do các doanh nghiệp đã chủ động tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống, sản xuất và cung cấp mặt hàng, dịch vụ mới theo nhu cầu của thị trường, thay đổi giá sản phẩm, dịch vụ và đẩy mạnh thương mại điện tử; đơn hàng xuất khẩu ra nước ngoài tăng. Ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học có chỉ số tồn kho tăng rất cao so với cùng kỳ, nguyên nhân chính là năng lực các doanh nghiệp trong nước vẫn hạn chế; chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường.


7.4. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 6/2022 giảm 0,29% so với tháng trước và giảm 4,86% so với cùng kỳ. Cụ thể, so với cùng kỳ ngành khai khoáng chỉ số sử dụng lao động giảm 1,80%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,55%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,22%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 11,24%, cùng với quá trình cổ phần hóa, Công ty cấp thoát nước Lạng Sơn cắt giảm lao động. Bình quân, 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số sử dụng lao động giảm 4,81% so với cùng kỳ năm trước.

8. Thương mại và dịch vụ
Hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, giảm mạnh so với cùng kỳ, do phía Trung Quốc tiếp tục kiên trì thực hiện chính sách "Zero Covid", liên tục thắt chặt các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, nhất là tại khu vực biên giới và các cửa khẩu; các hoạt động chủ yếu tập trung tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Ga quốc tế đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu Tân Thanh (cửa khẩu Chi Ma hoạt động trở lại từ ngày 20/4/2022). Trước tình hình trên, tỉnh Lạng Sơn phối hợp  với phía Trung Quốc  vừa đảm bảo phòng chống dịch bệnh, vừa đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu; đã ban hành Phương án về thiết lập "vùng xanh" đảm bảo phòng, chống dịch Covid-19 phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khu vực các cửa khẩu: Hữu Nghị, Tân Thanh và Chi Ma, do đó, từ tháng 5/2022, năng lực thông quan tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh đã được nâng cao so với thời gian trước. Sang tháng 6, tình hình XNK hàng hóa qua lại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh bắt đầu đi vào ổn định, lượng hàng XNK tăng trở lại dẫn đến kim ngạch hàng hóa XNK qua địa bàn tăng hơn so với các tháng trước. Kim ngạch hàng hóa XNK trong tháng đạt 1.544,8 triệu USD. Lũy kế đến hết ngày 12/6/2022, tổng kim ngạch hàng hóa XNK qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn đạt 6.447 triệu USD. Trong đó xuất khẩu mở tờ khai tại Lạng Sơn đạt 211,42 triệu USD, giảm 67,4% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu mở tờ khai tại Lạng Sơn đạt 686,7 triệu USD, giảm 45,7% so với cùng kỳ.
Hoạt động thương mại, dịch vụ có mức tăng khá, hàng hoá giá cả ổn định đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Thị trường hàng hóa đa dạng phong phú, không xảy ra tình trạng tăng giá đột biến và khan hiếm hàng hóa, các mặt hàng thiết yếu được bảo đảm cung ứng đầy đủ, nhất là các nhu yếu phẩm, khẩu trang y tế, thiết bị phòng dịch bệnh..., các chính sách an sinh xã hội được đảm bảo; an ninh  -  trật tự an toàn xã hội được tăng cường; duy trì môi trường ổn định.

8.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Tại các chợ truyền thống, trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, các hệ thống phân phối hàng hoá đảm bảo nguồn hàng cung ứng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và trên địa bàn tỉnh không có hiện tượng khan hiếm hàng hoá hoặc tăng giá đột biến... Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 6/2022 ước đạt 1.788,1 tỷ đồng, giảm 2,94% so với tháng trước và tăng 17,48% so với cùng kỳ.
Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá 6 tháng đầu năm 2022 đạt 10.717,3 tỷ đồng, tăng 17,48% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các nhóm ngành hàng hóa trong 6 tháng đều tăng so với cùng kỳ. Cụ thể, có 6/12 nhóm ngành hàng hoá có tốc độ tăng so với cùng kỳ trên 10%: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 14,48%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 13,51%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,13%; nhóm ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 12,28%; nhóm xăng dầu tăng 16,34% và nhiên liệu khác tăng 16,63%. Các nhóm ngành hàng hóa còn lại có tốc độ tăng dưới 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm phương tiện đi lại tăng 8,32%; nhóm hàng hoá khác tăng 9,12%; nhóm dịch vụ sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 8,48%. Ngoài những nhóm hàng trên có tốc độ tăng khá, thì có 3 nhóm ngành giảm so với cùng kỳ năm trước đó là: nhóm hàng may mặc giảm 5,76%; nhóm vật phẩm văn hoá, giáo dục giảm 1,62%  và nhóm đá quý kim loại quý giảm 5,68% so với cùng kỳ năm trước.


8.2. Dịch vụ
8.2.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Hiện nay, hoạt động du lịch trong nước và nước ngoài đã hoạt động trở lại, các tour du lịch trong nước đang thực hiện nhiều gói ưu đãi, khuyến mãi giảm giá sâu để kích cầu khách du lịch. Doanh thu du lịch lữ hành tháng 6/2022 đạt 1,2 tỷ đồng, tăng 3,6% so với tháng trước và tăng 89,45% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước 6 tháng đầu năm doanh thu dịch vụ lữ hành đạt 6,2 tỷ đồng tăng 21,92% so với cùng kỳ năm trước.
 Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng tháng 6/2022 ước doanh thu đạt 174,9 tỷ đồng, giảm 4,92% so với tháng trước và tăng 49,67% so với cùng kỳ năm trước. (Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 10,2 tỷ đồng, tăng 48,22%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 164,6 tỷ đồng, tăng 49,76% so với cùng kỳ).
Dự ước 6 tháng đầu năm 2022,doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.044,8 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 26,6%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đang được chú trọng đầu tư và phát triển thu hút khách du lịch từ mọi miền đến thăm quan và du lịch, nghỉ dưỡng các cơ sở hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống cũng được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng được nhu cầu của người dân.

8.2.2. Doanh thu dịch vụ khác
Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 6/2022 ước đạt 42,6 tỷ đồng, giảm 4,03% so với tháng trước và tăng 19,78% cùng kỳ năm trước. Dự ước 6 tháng đầu năm 2022 doanh thu dịch vụ đạt 257,1 tỷ đồng tăng 9,41% so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 12,14%; nhóm hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 12,29%; nhóm hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 17,66%. Hầu hết các nhóm dịch vụ trên so cùng kỳ đều tăng ở mức khá cao, đáp ứng được nhu cầu dịch vụ của nhân dân.

8.3. Vận tải
Vận tải hành khách tháng 6 và Quý II năm 2022 có mức tăng khá cao so với cùng kỳ do dịch Covid-19 đã được kiểm soát cùng với chính sách mở cửa du lịch từ ngày tháng 4/2022 nên nhu cầu đi lại của người dân tăng. Doanh thu vận tải hành khách tháng 6 đạt 16,9 tỷ đồng, tăng 84,99%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 66,51%; hành khách luân chuyển tăng 42,81% so với cùng kỳ. Quý II doanh thu vận tải hành khách đạt 51,4 tỷ đồng, tăng 32,04% (Quý I tăng 4,18% so cùng kỳ do quý I trên địa bàn tỉnh bùng phát dịch Covid-19). Vận tải hàng hóa tháng 6 duy trì tốc độ tăng cao. Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 84,59 tỷ đồng, tăng 26,71%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 68,24%; hàng hoá luân chuyển tăng 32,59% so với cùng kỳ. Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 46,21 tỷ đồng, tăng 12,38%; hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 0,35 tỷ đồng, tăng 10,03% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 6 năm 2022 ước đạt 148 tỷ đồng, tăng 26,17% so với cùng kỳ
Tổng doanh thu toàn ngành vận tải 6 tháng năm 2022 ước đạt 883,8 tỷ đồng, tăng 9,49% so với cùng kỳ. Chủ yếu tăng ở khối lượng hành khách vận chuyển, do tình hình dịch Covid-19 trong nước  được kiểm soát tốt, nhu cầu đi lại của người dân tăng, đặc biệt trong trong 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn tỉnh vào dịp 30/4 và 1/5 tổ chức lễ, hội lớn, lưu lượng khách vận chuyển tăng; khối lượng vận chuyển hàng hóa ước tăng cao hơn so với năm 2021 do hiện nay các hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại bình thường. Bên cạnh đó, trong quý II hoạt động xây dựng công trình tăng mạnh nhu cầu vận chuyển hàng hoá, nguyên vật liệu tăng do đó khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng cao so với cùng kỳ. Mặt khác, do giá xăng dầu trong 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ 2021, dẫn đến giá cước vận tải tăng. Những tháng tiếp theo, gành vận tải tiếp tục gặp khó khăn khi giá xăng, dầu vẫn ở mức cao khiến cho chi phí đầu vào cao. Doanh thu vận tải hành khách đạt 112,1 tỷ đồng tăng 15,34%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 8,91%; hành khách luân chuyển tăng 11,29%. Doanh thu vận tải hàng hoá đạt 535,7 tỷ đồng, tăng 8%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 20,61%; hàng hoá luân chuyển tăng 10,12%. Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 234,1 tỷ đồng tăng 10,27%; dịch vụ chuyển phát đạt 1,9 tỷ đồng tăng 11,36% so với cùng kỳ.


II. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Đời sống dân cư
1.2. Công tác an sinh xã hội
Cấp ủy và chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo, chính sách hỗ trợ giảm nghèo được triển khai đồng bộ, hiệu quả như: Hỗ trợ giáo dục, đào tạo.  Trong 6 tháng, đã hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo và các đối tượng chính sách ước đạt 427.880 thẻ. UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện công tác giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 -2025, định hướng đến năm 2030. Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025 quy định tại Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ: Tổng số hộ nghèo 23.510 hộ, chiếm 12,20%; tổng số hộ cận nghèo 23.248 hộ, chiếm 12,07%.
Thực hiện cứu đói cho các hộ gia đình trên địa bàn, tổng số 4.683 hộ, (15.572 nhân khẩu) với 233.580 kg gạo, kinh phí: 3,6 tỷ đồng. Tặng quà các gia đình hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: 1.730 hộ, tổng trị giá 1.038 triệu đồng; các đối tượng bảo trợ xã hội: 524 người trị giá 314,4 triệu đồng; Người cao tuổi: 10 người, trị giá: 6 triệu đồng; trẻ em 04 người, trị giá 2,4 triệu đồng; Thực hiện chuyển quà tặng từ tỉnh, huyện, xã và các nguồn xã hội hóa, các đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội, các cá nhân cho 29.193 người, trị giá quà tặng 15,5 tỷ đồng.
Thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội đối với người có công, gia đình khó khăn, đối tượng bảo trợ xã hội. Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 22.837 lượt người có công và thân nhân với kinh phí 44,8 tỷ đồng; Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến là 760 hồ sơ.


1.3. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[4]
Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, các chính sách lao động - việc làm được duy trì thường xuyên tại Trung tâm Dịch vụ việc làm, Ước tạo việc làm mới cho trên 11.000 lao động trên địa bàn tỉnh, đạt 68,75% kế hoạch, trong đó: Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm của tỉnh cho vay 2.364 dự án với doanh số cho vay đạt 105,261 tỷ đồng, tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho khoảng 3.000 lao động; trên 1.000 lao động được tạo việc làm mới từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, thương mại, du lịch, phát triển doanh nghiệp của tỉnh; trên 7.000 lao động đi làm việc tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ngoài tỉnh.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 ngành chức năng tiếp tục kiểm tra, kiểm soát việc cấp sổ thông hành cho người lao động và xử lý nghiêm các trường hợp công dân xuất cảnh, nhập cảnh trái phép qua các đường mòn biên giới góp phần ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm dịch Covid-19 trong cộng đồng. Từ đầu năm 2020, để thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh theo chỉ đạo của Chính phủ và UBND tỉnh, việc triển khai thực hiện cơ chế hợp tác lao động qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc được tạm dừng, tuy nhiên trên thực tế vẫn phát sinh tình trạng lao động xuất cảnh bất hợp pháp qua biên giới làm việc.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Lũy kế đến ngày 28/02/2022 toàn tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 là 126 tỷ đồng.
Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội duy trì ổn định. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của công tác chăm lo đời sống cho người lao động, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đã chú trọng các chính sách để thu hút người lao động gắn bó lâu dài. Việc thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, BHTN và trả lương cho người lao động tại các doanh nghiệp cơ bản được thực hiện ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa chấp hành nghiêm Luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội như: Chưa thực hiện đúng thời gian làm việc, không đóng bảo hiểm cho người lao động, một số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả dẫn đến việc chi trả lương cho người lao động thấp. Do vậy, lực lượng lao động của tỉnh đi làm thuê ở ngoài tỉnh tương đối lớn.


2. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[5]
2.1. Công tác y tế dự phòng
* Công tác phòng chống dich Covid-19 tính đến 15h00 ngày 24/6/2021:
Tập trung triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch Covid -19 theo quy định, các đơn vị y tế đảm bảo “4 tại chỗ” chủ động đáp ứng các cấp độ dịch có thể xảy ra, trong những tháng đầu năm tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp, đặc biệt là sau tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, số ca bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh tăng rất nhanh. Tính từ ngày 01/01/2022 đến ngày 24/6/2022 có 154.326 F0. Tuy nhiên, từ tháng 4 trở đi số ca mắc đã giảm sâu, hiện nay dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát, tính đến ngày 09/5/2022 toàn bộ 200/200 xã, phường, thị trấn phân loại cấp độ dịch theo Nghị quyết số 128/NQ-CP Cấp 1 “Vùng xanh” (đạt 100%). Tiếp tục triển khai mạnh kế hoạch tiêm vắc xin phòng Covid-19 năm 2022, tỉnh Lạng Sơn có độ bao phủ vắc xin nhanh nhất cả nước tại cả 3 lứa tuổi. Tình hình tiêm chủng: Cộng dồn tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận 1.783.086 liều; đã tiêm: 1.715.099 liều. Từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,89%; tỷ lệ tiêm 2 mũi đạt 99,86%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại (mũi 3): 88,47% (Lạng Sơn trong top 11 tỉnh trên toàn quốc tiêm mũi 3 đạt trên 80%; hiện tại tỷ lệ mũi 3 toàn quốc là 62%); tiêm mũi 4 (cho đối tượng nguy cơ): 34,9% trên tổng số 130.017 người dự kiến tiêm. Trẻ em từ 12-17 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 98,8%; tỷ lệ mũi 2 đạt 94,9% trên tổng số 69.808 trẻ cần tiêm. Trẻ em từ đủ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 50,2%; tỷ lệ mũi 2 đạt 14,3% trên tổng số 96.316 trẻ dự kiến tiêm.
Tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát tốt tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, các hoạt động văn hóa - xã hội diễn ra thuận lợi, đời sống người dân được cải thiện.
* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác: Công tác phòng, chống các bệnh truyền nhiễm khác tiếp tục được kiểm soát, không để dịch lớn xảy ra. Chủ động bám sát diễn biến tình hình dịch bệnh, thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống dịch từ khu vực biên giới, cửa khẩu đến nội địa, không để dịch lây lan ra cộng đồng.


2.2. Công tác khám chữa bệnh
Chất lượng khám bệnh, chữa bệnh tiếp tục được nâng lên, nhận được sự hài lòng của Nhân dân. Kết quả khám chữa bệnh công lập cả 3 tuyến 587.515 lượt; điều trị nội trú và lưu trú tại trạm y tế xã 71.065 lượt, điều trị ngoại trú cho 105.642 lượt; khám chữa bệnh của các cơ sở y tế ngoài công lập được 77.242 lượt người, trong đó khám bảo hiểm y tế 50.797 lượt người. Mạng lưới y tế xã tiếp tục được củng cố góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân ngay tại tuyến cơ sở, hoàn thành 3/4 chỉ  tiêu về y tế, có 175 xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã (đạt 97% so với kế hoạch); 11,2 bác sỹ (đạt 100%) và 32,5 giường bệnh trên 1 vạn dân (đạt 100%), tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%.

3. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[6]
Trong 6 tháng đầu năm 2022, tỉnh Lạng Sơn tổ chức triển khai các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân Nhâm Dần năm 2022, tổ chức Cuộc thi Vườn cây hoa Đào đẹp và cây hoa Đào đẹp Xứ Lạng Xuân Nhâm Dần năm 2022, lễ hội hoa Đào Xứ Lạng. Tuy nhiên, do tình hình dịch Covid-19, đã tạm dừng tổ chức 11 hoạt động và điều chỉnh một số hoạt động cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong những tháng gần đây khi tình hình được kiểm soát các hoạt động văn hóa được tổ chức thường xuyên, đảm bảo an toàn, hiệu quả, đời sống tinh thần của Nhân dân được nâng lên. Tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh. Tổ chức tốt Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Triển khai mở cửa hoạt động kinh doanh dịch vụ đối với lĩnh vực văn hóa (karaoke, vũ trường) trong tình hình mới để phát triển các hoạt động dịch vụ hỗ trợ du lịch. Khởi công  dự án Quần thể khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn. Phối hợp tổ chức thành công Lễ hội Kỳ Hoa - Lạng Sơn 2022 với nhiều hoạt động kỳ thú, không gian hoa lệ, mang đậm bản sắc văn hoá xứ Lạng phục vụ nhân dân và du khách, đây là hoạt động điểm nhấn khởi động các hoạt động du lịch, văn hóa, thương mại bắt đầu sôi động trở lại sau thời gian dài chịu nhiều ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19
Chuẩn bị tốt các điều kiện tổ chức Đại hội TDTT tỉnh Lạng Sơn lần thứ IX năm 2022, đến nay 200/200 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành Đại hội TDTT cấp xã và 11/11 huyện, thành phố tổ chức Đại hội TDTT cấp huyện; tổ chức thành công các nội dung thi đấu môn Vovinam, tổ chức giải bóng đá Thiếu niên, nhi đồng tỉnh Lạng Sơn năm 2022. Cử vận động viên tham gia thi đấu môn Wushu tại Seagame 31, đạt 02 Huy chương Đồng với 02 nội dung Nam quyền và Nam côn. Phát động phong trào toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2022. Tiếp tục phối hợp với Tổng cục TDTT chuẩn bị các điều kiện cần thiết tổ chức thành công giải Wushu trẻ quốc gia năm 2022 tại tỉnh Lạng Sơn. Duy trì, thực hiện tốt công tác đào tạo, huấn luyện vận động viên tham gia các giải thể thao khu vực và toàn quốc, phong trào thể thao quần chúng được quan tâm, chú trọng.
Trong 6 tháng đầu năm thu hút 2.226,2 nghìn lượt khách du lịch, đạt 64,3% kế hoạch, tăng 103,8% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch ước đạt 881 tỷ đồng, đạt 33,9% kế hoạch, tăng 43%, đến nay ngành du lịch các hoạt động du lịch của tỉnh bắt đầu sôi động, ngành du lịch của tỉnh đang thực hiện nhiều biện pháp để phục hồi, phấn đấu  đạt và vượt mục tiêu kế hoạch năm 2022. 


4. Giáo dục
Trong 6 tháng đầu năm 2022, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục được chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện, nâng cao chất lượng dạy và học, chủ động xây dựng, triển khai sớm, hiệu quả các kế hoạch, chương trình, đề án, đưa ra các giải pháp linh hoạt để học sinh, sinh viên được đến trường trong trạng thái bình thường mới, các cơ sở giáo dục tổ chức dạy và học trực tiếp dạy học trực tuyến tùy theo diễn biến của dịch bệnh. Các cơ sở giáo dục thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2021 - 2022 ở các cấp học. Kỳ thi thử tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) năm 2022 lần thứ nhất với 6.722 thí sinh dự thi, 2.330 thí sinh không tham dự do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã được tổ chức thi thử bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến trong tháng 3/2022.
Toàn tỉnh hiện có 674 đơn vị, trường học
[7]. Tổng số trẻ, học sinh, sinh viên là 205.372 người[8]. Triển khai kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận trường học đạt chuẩn quốc gia năm 2022 theo kế hoạch, đã công nhận mới 04 trường và 08 trường được công nhận lại trường học đạt chuẩn quốc gia. Toàn tỉnh hiện có 200/200 xã, phường, thị trấn và 11/11 đơn vị cấp huyện duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; toàn tỉnh duy trì ổn định mức độ đạt chuẩn phổ cập giáo duc cấp THCS mức độ 2.
Thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn của các cấp học, để các điều kiện, nội dung đáp ứng thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018. Triển khai thực nghiệm sách giáo khoa lớp 7, lớp 10; tổ chức lựa chọn sách giáo khoa lớp 3, lớp 7, lớp 10 theo quy định, biên soạn, hoàn thiện tài liệu giáo dục địa phương cấp THPT sử dụng trong các cơ sở giáo dục phổ thông từ năm học 2022 - 2023. Bồi dưỡng công tác thi tốt nghiệp THPT năm học 2022 - 2023 cho toàn bộ giáo viên dạy 12 của các trường có cấp THPT và trung tâm giáo dục thường xuyên TTGDTX), trung tâm giáo dục nghề nghiệp (TTGDNN) - GDTX; xây dựng kế hoạch tuyển sinh lớp 10 các trường THPT năm học 2022 - 2023. Tổ chức tốt kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2021- 2022, Hội thi giáo viên dạy giỏi các môn khoa học xã hội cấp tỉnh;  tham gia thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp quốc gia, nhìn chung số lượng giải và chất lượng giải của các thí sinh đạt được tại các cuộc thi cao hơn so với năm trước.


5. Trật tự - An toàn giao thông[9]
Trong 6 tháng đầu năm 2022, đặc biệt là thời điểm trước, trong và sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, làm ăn buôn bán, du lịch, thăm thân,...  của nhân dân tăng cao. Tại các tuyến đường ra vào khu vực cửa khẩu, vào một số thời điểm số lư ợng xe vận chuyển hàng hóa chờ xuất nhập khẩu tăng đột biến, dẫn đến quá tải tại các bến bãi và ùn ứ phương tiện đỗ chờ thông quan trên tuyến Quốc lộ 1 đã đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và phòng chống dịch Covid-19 trong hoạt động giao thông vận tải. Trước tình hình trên, các Sở, Ban, Ngành, địa phương đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các biện pháp công tác, kịp thời giải quyết ngay những phức tạp mới nảy sinh nên tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh được giữ vững ổn định, hoạt động giao thông vận tải trên các tuyến, địa bàn diễn ra an toàn, thông suốt, phục vụ tốt nhu cầu đi lại của nhân dân. Tình hình tai nạn giao thông trong 6 tháng đầu năm có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2021. Toàn tỉnh xảy ra 15 vụ tai nạn giao thông, làm chết 15 người, bị thương 7 người. So với cùng kỳ năm 2021: tai nạn giao thông giảm 3 vụ (16,67%), giảm 01 người chết (6,25%), số người bị thương bằng cùng kỳ; không xảy ra tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; 4 địa bàn huyện, thành phố không xảy ra tai nạn giao thông.

6. Môi trường
Trong tháng 6, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn sảy ra 01 vụ vi phạm môi trường của 01 doanh nghiệp do thực hiện quan trắc môi trường không đầy đủ, ngành chức năng đã sử phạt số tiền là 20 triệu đồng, tăng 01 vụ so với cùng kỳ tháng 6/2021. Lũy kế từ đầu năm 2022 có 02 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, tổng số tiền xử phạt 90 triệu đồng.

7. Thiệt hại do thiên tai
Trong 6 tháng đầu năm, thời tiết địa bàn tỉnh Lạng Sơn diễn biến phức tạp. Ba tháng đầu năm, thời tiết rét đậm, rét hại; sang tháng 5 và tháng 6, trên địa bàn tỉnh xảy ra mưa vừa, mưa to có nơi mưa rất to, sét đã gây ra sạt lở, ngập đường giao thông, nhà ở; riêng tháng 5 mưa lớn trên diện rộng, gây ra lũ trên các sông chính. Diện tích lúa và hoa màu các loại  bị ngập cục bộ 4.962  ha; diện tích cây công nghiệp ngắn ngày bị thiệt hại 1.193 ha; diện tích cây công nghiệp dài ngày bị thiệt hại 25,5 ha; cây giống bị thiệt hại (cây hồi) 129.500 cây; 13.941 con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi do lũ; trên 1.300 con gia súc bị chết do rét đậm rét hại. Diện tích thủy sản bị cuốn trôi, ngập khoảng 46 ha; tổng số lồng cá bị thiệt hại là 142 lồng; số lượng cá bị thiệt hại khoảng 27 tấn. 08 đập, hồ chứa bị ảnh hưởng; 05 trạm bơm bị ngập; 1.200m mương bị sạt lở, vùi lấp. Sập nhà ở, nhà khác tại huyện Văn Quan, Chi Lăng; sạt lở 4.740 m3 đất đá đường giao thông tại huyện Chi Lăng. Ước tổng giá trị thiệt hại 6 tháng đầu năm do thiên tai trên 400 tỷ đồng
Khái quát lại, trong 6 tháng đầu năm, khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhưng với sự lãnh đạo của các cấp, các ngành tỉnh Lạng Sơn, cùng với sự đồng thuận của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh đã thực hiện đạt mục tiêu "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19", kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển, dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, độ bao phủ vắc xin của tỉnh nhanh nhất cả nước tại cả 3 lứa tuổi. Các chỉ tiêu năm 2022 được triển khai quyết liệt, cơ bản đảm bảo tiến độ đề ra. Kịp thời khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra, ổn định đời sống nhân dân sau thiên tai. Kinh tế tiếp tục phát triển, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp tiếp tục ổn định, đạt tiến độ kế hoạch; hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ sôi động trở lại, tiếp tục tăng trưởng;các nhiệm vụ chuyển đổi số tiếp tục được triển khai mạnh mẽ; văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống Nhân dân cơ bản ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững, tai nạn giao thông được kiềm chế; công tác đối ngoại tiếp tục duy trì có hiệu quả.

III. Đề xuất giải pháp
Để hoàn thành tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, trong 6 tháng cuối năm 2022 các cấp, các ngành tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những khó khăn, thách thức phía trước để có các giải pháp khắc phục, trong đó tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2022. Tổ chức thực hiện hiệu quả Kế hoạch của UBND tỉnh thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Tập trung thực hiện quyết liệt, sáng tạo, hiệu quả chủ đề năm 2022 là “siết chặt kỷ cương, tăng cường trách nhiệm, quyết liệt hành động, sáng tạo bứt phá”.
Hai là, tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Chủ động chuẩn bị và triển khai kế hoạch sản xuất vụ mùa đảm bảo thời vụ, quan tâm tăng diện tích lúa mùa sớm. Tăng cường công tác khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật; thực hiện các biện pháp phòng, chống bệnh dịch trên cây trồng, vật nuôi. Chuyển dịch cơ cấu đàn vật nuôi theo hướng tăng quy mô, số lượng và nâng cao chất lượng các vật nuôi chủ lực. Tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021-2030; đẩy mạnh xã hội hoá trồng rừng, tăng cường quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng. Chủ động các biện pháp phòng, chống thiên tai; kiểm tra các công trình thủy lợi, điều tiết nước hợp lý phục vụ sản xuất. Đẩy mạnh thực hiện chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Tập trung hỗ trợ xây dựng các chuỗi liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) theo hướng đa dạng hóa và nâng cao hơn nữa chất lượng gắn với xây dựng thương hiệu.
Ba là, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư để tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là hình thức đối tác công tư tại các vùng khó khăn. Tiếp tục tập trung hoàn chỉnh hồ sơ dự án theo quy định; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành hồ sơ phê duyệt Dự án Nâng cấp Quốc lộ 4B đoạn Km18-Km80 sau khi được phê duyệt danh mục, phấn đấu khởi công cuối năm 2022. Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thi công, giải phóng mặt bằng các công trình, dự án, nhất là dự án trọng điểm của tỉnh, dự án có tính chất kết nối liên vùng. Tập trung tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành hồ sơ phê duyệt dự án, công tác lựa chọn nhà thầu đảm bảo khởi công xây dựng 100% các dự án khởi công mới trong quý III/2022. Đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các Chương trình MTQG. Tiếp tục triển khai xây dựng giao thông nông thôn.
Bốn là, duy trì ổn định sản xuất của các cơ sở công nghiệp. Thành lập, khởi công xây dựng Khu công nghiệp Hữu Lũng, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Hoàn thành đưa vào hoạt động dự án thủy điện; thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư điện gió trên địa bàn. Tập trung phát triển thương mại điện tử, các loại hình thương mại dựa trên nền tảng số hóa. Tăng cường công tác quản lý giá, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Hệ thống ngân hàng trên địa bàn tiếp tục thực hiện tốt hoạt động tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp, Nhân dân trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống. Nâng cao khả năng dự báo tình hình, nắm bắt các chính sách, biện pháp áp dụng đối với hoạt động xuất nhập khẩu của phía Trung Quốc, kịp thời đề ra các biện pháp tháo gỡ khó khăn, nâng cao năng lực thông quan hàng hóa qua địa bàn tỉnh, hạn chế ùn tắc hàng hóa và bảo đảm yêu cầu phòng, chống dịch. Thực hiện các biện pháp kích cầu, phục hồi du lịch; tăng cường quảng bá tiềm năng, thế mạnh du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch; nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ du lịch; từng bước phát triển hạ tầng du lịch để thực hiện mục tiêu đưa du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn. Thực hiện quyết liệt các giải pháp phấn đấu thu đạt tiến độ dự toán ngân sách. Quản lý chi ngân sách theo đúng quy định về tiêu chuẩn, chế độ, đảm bảo chặt chẽ, hiệu quả, tiết kiệm. Tăng cường công tác quản lý giá, thị trường, nhất là giá các mặt hàng quan trọng, Nhà nước còn định giá, mặt hàng bình ổn giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Năm là, tiếp tục triển khai hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp sở ban ngành địa phương (DDCI), năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022; Kế hoạch phát triển doanh nghiệp, kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2022. Thường xuyên nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã. Tích cực triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo các Nghị quyết của Chính phủ, của tỉnh. Tích cực triển khai các chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn triển khai các dự án đầu tư ngoài ngân sách.
Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo. Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông năm 2022, tuyển sinh và khai giảng năm học 2022-2023. Duy trì công tác phòng, chống dịch Covid-19 theo chỉ đạo Trung ương, Bộ Y tế và Ban Chỉ đạo tỉnh theo chiến lược "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19". Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và thái độ chăm sóc phục vụ bệnh nhân. Tập trung tuyên truyền và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh. Đẩy mạnh phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lực lượng thể thao thành tích cao. Tiếp tục duy trì các hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm, tư vấn học nghề cho người lao động. Thực hiện đầy đủ, kịp thời, toàn diện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, chính sách người có công với cách mạng, hộ nghèo, gia đình chính sách. Triển khai mạnh mẽ các giải pháp giảm nghèo. Tiếp tục quan tâm thực hiện các quyền của trẻ em, làm tốt công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ; phòng, chống tệ nạn xã hội. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách về dân tộc, tôn giáo. Tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, bảo đảm chủ quyền biên giới quốc gia. Triển khai thực hiện tốt công tác quân sự, quốc phòng địa phương năm 2022.
 

[1]Số liệu do Tổng cục Thống kê công bố ngày 30/5/2022, thực hiện theo Quyết định số 715/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới quy trình biên soạn số liệu Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
[2] Nguồn: Sở Tài chính
[3] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn
[4] Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
[5] Nguồn: Sở Y tế.
[6] Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch.
[7] Trong đó: 232 trường mầm non (tăng 01 trường)); 180 trường tiểu học (giảm 02 trường); 72 trường tiểu học và trung học cơ sở (tăng 01 trường); 145 trường THCS (giảm 04 trường); 26 trường THPT; 06 trường PTDTNT THCS&THPT (tăng 03 trường); 01 trường THCS&THPT; 02 TTGDTX; 09 TTGD nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 01 trường chuyên nghiệp.
[8] Trong đó: cấp mầm non 53.829; tiểu học 75.398; trung học cơ sở 48.431, trung học phổ thông 22.353, giáo dục thường xuyên 3.874 và trường chuyên nghiệp 1.487.
     [9] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh.
 

Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây