Tổng điều tra kinh tế 2021 – Khái quát kết quả sơ bộ

Thứ tư - 12/01/2022 03:42
Trong năm 2020, các doanh nghiệp thu hút trên 14,7 triệu lao động, tăng 4,7% so với năm 2016. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2016-2020, số lao động tăng 1,2%, thấp hơn mức tăng 5,1%/năm của giai đoạn 2011-2016.

Số lượng và lao động của các đơn vị điều tra

Số lượng và lao động của các đơn vị điều tra năm 2020 đều tăng so với năm 2016,
 tuy nhiên mức độ tăng về lao động thấp hơn so với các giai đoạn trước.

Theo kết quả Tổng điều tra năm 2021, tổng số lượng của 04 loại đơn vị điều tra do Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2020 có gần 6,0 triệu đơn vị, tăng 8,0% (tăng 444,7 nghìn đơn vị) so với năm 2016. Bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020, số lượng đơn vị tăng 1,9%/năm, cao hơn mức tăng 1,5%/năm của giai đoạn 2011-2016 và thấp hơn mức tăng 4,9%/năm của giai đoạn 2006-2011.

Số lượng lao động trong các đơn vị điều tra năm 2020 là gần 26,0 triệu người, tăng 3,0% (tăng 752,8 nghìn người) so với năm 2016. Bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020, số lượng lao động tăng 0,7%/năm, thấp hơn mức tăng 3,6%/năm của giai đoạn 2011-2016 và mức tăng 7,7%/năm của giai đoạn 2006-2011.

Số lượng doanh nghiệp, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng duy trì mức tăng trưởng; các cơ sở SXKD cá thể, đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ có dấu hiệu chững lại trong 5 năm qua.

Doanh nghiệp tăng cả về số doanh nghiệp và lao động, trong đó số doanh nghiệp có mức tăng cao nhất trong các loại đơn vị điều tra.

Tính đến 31/12/2020, cả nước có 683,6 nghìn doanh nghiệp thực tế đang hoạt động có kết quả SXKD, tăng 35,3% (tăng 178,5 nghìn doanh nghiệp) so với năm 2016. Giai đoạn 2016-2020, bình quân mỗi năm số doanh nghiệp tăng 7,9%. Tuy nhiên, mức tăng này vẫn thấp hơn mức tăng 8,7% bình quân năm của giai đoạn 2011-2016.

Trong năm 2020, các doanh nghiệp thu hút trên 14,7 triệu lao động, tăng 4,7% so với năm 2016. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2016-2020, số lao động tăng 1,2%, thấp hơn mức tăng 5,1%/năm của giai đoạn 2011-2016.

Hợp tác xã có mức tăng cao về số lượng đơn vị nhưng giảm mạnh về số lao động.

Năm 2020, cả nước có gần 15,3 nghìn hợp tác xã, tăng 17,5% (tăng 2,3 nghìn đơn vị) so với năm 2016; thu hút 169,6 nghìn lao động, giảm 15,6% (giảm 31,3 nghìn lao động) so với năm 2016. Số lượng các hợp tác xã thuộc ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng chủ yếu với 50,7%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với năm 2016 (năm 2016 là 50,8%); ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 18,5%, giảm 1 điểm phần trăm (năm 2016 là 19,5%); ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng 30,8%, tăng 1,1 điểm phần trăm so với năm 2016 (năm 2016 là 29,7%).

Bình quân giai đoạn 2016-2020, mỗi năm số lượng HTX tăng 3,5%, cao hơn mức giảm bình quân 0,8% của giai đoạn 2011-2016; mỗi năm số lao động trong các HTX giảm 4,4%, trái ngược so với mức tăng bình quân 0,2%/năm của giai đoạn 2011-2016.

Cơ sở SXKD cá thể tăng cả về số đơn vị và số lao động nhưng thấp hơn nhiều so với các giai đoạn trước đây.

Năm 2020, cả nước có gần 5,2 triệu cơ sở SXKD cá thể, tăng 5,7% (tăng 281,1 nghìn cơ sở) so với năm 2016; thu hút trên 8,5 triệu lao động, tăng 3,0% (tăng 246,4 nghìn lao động). Bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2020, số cơ sở tăng 1,4% và số lao động tăng 0,7%, thấp hơn nhiều so với mức tăng của giai đoạn 2011-2016 lần lượt là 3,0% và 1,8%; giai đoạn 2006-2011 lần lượt là 4,4% và 5,6%.

Trong năm 2020, mặc dù tỷ trọng số lượng cơ sở SXKD cá thể khá cao, chiếm tới 86,6% trong tổng số đơn vị điều tra nhưng tổng số lao động của cơ sở SXKD cá thể chỉ chiếm khoảng 32,8% trong tổng số lao động của các đơn vị điều tra. Lý do, các cơ sở SXKD cá thể thường có quy mô lao động rất nhỏ từ 1,5 đến 1,7 lao động/cơ sở.

Đơn vị sự nghiệp có sự sụt giảm về số lượng đơn vị so với năm 2016 (đặc biệt lĩnh vực Y tế giảm mạnh do thay đổi phạm vi thu thập thông tin[1]).

Tổng số lượng đơn vị sự nghiệp năm 2020 là 52,5 nghìn đơn vị, giảm 28,6% (giảm trên 21 nghìn đơn vị) so với năm 2016; thu hút 2,4 triệu lao động, giảm 6,1% (giảm 154,8 nghìn lao động). Bình quân hằng năm trong giai đoạn 2016-2020, số lượng đơn vị sự nghiệp giảm 8,1% và số lượng lao động giảm 1,6%; xu hướng này ngược với giai đoạn 2011-2016 khi bình quân hằng năm số lượng đơn vị tăng 0,5% và số lượng lao động tăng 2,8%; giai đoạn 2006-2011 lần lượt là 2,6% và 5,0%.

Đơn vị hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ có sự sụt giảm về số lượng đơn vị nhưng số lượng lao động lại có sự tăng trưởng so với năm 2016.

Tổng số lượng đơn vị hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ là 6.482 đơn vị, giảm 2,7% so với năm 2016 (năm 2016 là 6.663 đơn vị); số lượng lao động là 37,9 nghìn người, tăng 2,5% so với năm 2016 (năm 2016 là 36,9 nghìn người). Trong đó, đơn vị hiệp hội giảm 2,2% về số lượng đơn vị, tăng 1,8% về số lượng lao động;

số lượng các tổ chức phi Chính phủ giảm 17,1% và số lượng lao động tăng 8,5% so với năm 2016.

Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng duy trì đà tăng trưởng cả về số lượng cơ sở và lao động, tuy nhiên tốc độ tăng có xu hướng trái ngược nhau.

Theo kết quả Tổng điều tra, năm 2020 cả nước có trên 46,8 nghìn cơ sở thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, tăng 9,6% so với năm 2016; thấp hơn tốc độ tăng của năm 2016 so với 2011 (19,5%) và năm 2011 so với 2006 (27,4%). Bình quân giai đoạn 2016-2020, số lượng cơ sở tăng 2,3%/năm thấp hơn mức tăng 3,6%/năm của giai đoạn 2011-2016 và 5%/năm của giai đoạn 2006-2011

Năm 2020 có 167,2 nghìn chức sắc, nhà tu hành làm việc thường xuyên tại các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, tăng 19,2% so với năm 2016, cao hơn tốc độ tăng năm 2016 so với năm 2011 (7,9%) và năm 2011 so với năm 2006 (5,7%). Tốc độ tăng nhân lực bình quân năm giai đoạn 2016-2020 là 4,5%, cao hơn mức tăng 1,5%/năm của giai đoạn 2012-2016 và 1,1%/năm của giai đoạn 2006-2011.

Quy mô lao động bình quân một đơn vị điều tra

Quy mô lao động bình quân một đơn vị điều tra năm 2020 biến động không đều so với năm 2016 trong đó giảm mạnh ở khối doanh nghiệp.

Lao động bình quân trong một đơn vị điều tra giảm nhẹ từ 4,5 người năm 2016 xuống 4,3 người năm 2020.

Khu vực Doanh nghiệp giảm từ 27,2 người xuống 21,5 người (doanh nghiệp nhà nước tăng từ 476,8 người lên 506,4 người; doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm từ 17,2 người xuống 13 người; doanh nghiệp FDI giảm mạnh từ 286 người xuống 229,4 người).

Lao động bình quân trong một hợp tác xã giảm từ 15,1 người xuống năm 2016 11,1 người năm 2020.

Các cơ sở SXKD cá thể năm 2020 giảm nhẹ về quy mô lao động trên một cơ sở so với năm 2016, tương ứng là 1,6 và 1,7 người.      

Trái ngược với các đơn vị điều tra khác, các đơn vị sự nghiệp, hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ và tôn giáo, tín ngưỡng lại có biến động tăng so với năm 2016. Cụ thể: Lao động bình quân trên 1 đơn vị sự nghiệp là 46 người, tăng 11 người so với năm 2016; tổ chức phi Chính phủ năm 2020 là 24,9 người/cơ sở, tăng 5,9 người; đơn vị hiệp hội năm 2020 là 5,3 người, tăng 0,2 người so với năm 2016.

Xét theo khu vực kinh tế, lao động bình quân trên một đơn vị đều giảm ở tất cả các khu vực; khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ không biến động lớn, tuy nhiên khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm mạnh với mức 16% so với năm 2016.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là khu vực có số lượng lao động thấp nhất (chỉ chiếm 1,3% tổng số lao động của các đơn vị điều tra do chủ yếu là lao động trong các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp thuỷ sản). Tuy nhiên, lao động bình quân trên một đơn vị lại cao nhất trong ba khu vực và đạt 23,6 người/1 đơn vị (năm 2016 là 27,8 người/1 đơn vị); Khu vực công nghiệp-xây dựng có số lượng lao động lớn thứ hai (chiếm 43,9%), quy mô lao động bình quân đạt khoảng 10,6 người/1 đơn vị (tương đương với năm 2016); Khu vực dịch vụ có số lượng lao động lớn nhất (chiếm 54,8%), tuy nhiên quy mô lao động chỉ đạt khoảng 2,9 người/1 đơn vị (tương đương với năm 2016).

Mức độ tập trung đơn vị điều tra theo vùng kinh tế và khu vực kinh tế

Các đơn vị điều tra và số lao động tập trung nhiều nhất tại vùng Đồng bằng sông Hồng, ít nhất tại vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam bộ tiếp tục dẫn đầu là vùng thu hút nhiều doanh nghiệp nhất cả nước

Vùng Đồng bằng sông Hồng có số lượng đơn vị điều tra nhiều nhất với trên 1,6 triệu đơn vị, chiếm 25,9%; đứng thứ hai là vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung với 1,3 triệu đơn vị, chiếm 21,9%; đứng thứ ba là vùng Đông Nam bộ với gần 1,2 triệu đơn vị, chiếm 20,6%; tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu Long với gần 1,1 triệu đơn vị, chiếm 17,9%; vùng Trung du và miền núi phía Bắc đạt 530,3 nghìn đơn vị, chiếm 8,8%; vùng Tây Nguyên với 285 nghìn đơn vị, chiếm 4,8% trong tổng số đơn vị điều tra của cả nước và 133 đơn vị không phân vùng, chiếm tỷ trọng rất nhỏ.

Lao động tập trung nhiều nhất tại vùng Đồng bằng sông Hồng với hơn 7,9 triệu lao động, chiếm 30,5% tổng số lao động trong các đơn vị điều tra; thu hút lao động nhiều thứ hai thuộc về vùng Đông Nam bộ với 7,4 triệu lao động, chiếm 28,5%; Tây Nguyên là vùng có số lao động ít nhất với 769,7 nghìn lao động, chiếm 3,0%; số lao động trong các đơn vị không phân vùng chiếm 1,4% trong tổng số lao động cả nước.

Biểu đồ 01. Cơ cấu đơn vị và lao động của các đơn vị điều tra phân theo vùng kinh tế năm 2020 (%)

tong dieu tra kinh te 2021 vai net khai quat ket qua so bo

 

Trong tổng số 683,6 nghìn doanh nghiệp thì vùng Đông Nam bộ thu hút tới gần 280,7 nghìn doanh nghiệp, chiếm 41,1%; vùng Đồng bằng sông Hồng đứng thứ hai với 216,7 nghìn doanh nghiệp, chiếm 31,7%; tiếp theo là vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung với gần 89,2 nghìn doanh nghiệp, chiếm 13,1%; thấp nhất là vùng Tây Nguyên với 17,9 nghìn doanh nghiệp và chỉ chiếm 2,6% số lượng doanh nghiệp cả nước.

Khu vực dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất về số lượng đơn vị và lao động trong ba khu vực kinh tế.

Trong tổng số gần 6,0 triệu đơn vị điều tra năm 2020, khu vực dịch vụ thu hút gần 4,9 triệu đơn vị, chiếm 81,8% (năm 2016 chiếm 80,8%), tăng 409,2 nghìn đơn vị (tương đương 9,1%) so với năm 2016. Bình quân hằng năm giai đoạn 2016-2020 khu vực dịch vụ tăng 2,2%.

Khu vực công nghiệp, xây dựng thu hút gần 1,1 triệu đơn vị, chiếm 18,0% (năm 2016 là 19,0%), tăng 20,1 nghìn đơn vị (tương đương 1,9%) so với năm 2016. Bình quân hàng năm khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 0,5% trong giai đoạn 2016-2020.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có số lượng đơn vị thấp nhất, với gần 14,8 nghìn đơn vị và chỉ chiếm khoảng 0,2% (tương đương với năm 2016), tăng 2 nghìn đơn vị (tương đương tăng 16%) so với năm 2016, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 3,8%/năm.

Biểu đồ 02. Cơ cấu số lượng đơn vị và lao động trong các đơn vị điều tra phân theo khu vực kinh tế năm 2020
 

tong dieu tra kinh te 2021 vai net khai quat ket qua so bo 1

 

Về lao động, khu vực dịch vụ thu hút hơn 14,2 triệu lao động, chiếm 53,8%, tăng 4,9% so với năm 2016, bình quân tăng 1,2%/năm trong giai đoạn 2016-2020.

Khu vực công nghiệp-xây dựng thu hút gần 11,4 triệu lao động, chiếm 44,8%, tăng 0,8% so với năm 2016, bình quân tăng mỗi năm 0,2% trong giai đoạn 2016-2020.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản thu hút trên 349,7 nghìn lao động, chiếm 1,4%, giảm 0,6% so với năm 2016, bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2020 giảm 0,2%.

Tổng cục Thống kê đang đẩy nhanh tiến độ xử lý để công bố kết quả chính thức TĐT kinh tế năm 2021 trong thời gian sớm nhất. Kết hợp với dữ liệu khai thác từ các nguồn hồ sơ quản lý hành chính của ngành Thuế, Kho bạc, Hải quan,… kết quả chính thức sẽ được công bố với hệ thống các chỉ tiêu thống kê chi tiết, đầy đủ và những phân tích chuyên sâu, chuyên đề và công bố với nhiều hình thức nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin thống kê của Đảng, Nhà nước và các đối tượng dùng tin khác./.

Tác giả bài viết: Tổng cục Thống kê

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây